80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam: Sự phát triển trong quan điểm của Đảng về phát huy nguồn lực và tính tiên phong của văn hóa

      Nhân vật liên quan

      • Chủ tịch Đảng (2/1951 - 9/1969); Tổng Bí thư (10/1956 - 9/1960)Hồ Chí Minh
      • Tổng Bí thư của Đảng (5/1941 - 10/1956) và (7/1986 - 12/1986); Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (9/1960 - 7/1981); Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (7/1981- 6/1987) )Trường Chinh
Trong quá trình phát triển, văn hóa luôn là một dòng chảy liên tục, có sự kế thừa, bổ sung, điều chỉnh; giữ vai trò vừa là động lực nội sinh quan trọng, vừa là hệ điều tiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây cũng là quan điểm được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước ta cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn lực văn hóa là nguồn lực được kết tinh trong các giá trị văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng, được biểu hiện thông qua các giá trị văn hóa vật thể, giá trị văn hóa phi vật thể và trong các hoạt động văn hóa của con người - chủ thể sáng tạo văn hóa. Trong tiến trình cách mạng 93 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp để khai thác, phát huy sức mạnh của văn hóa qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc.

- Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943: Dân tộc, khoa học, đại chúng

Khởi xướng cho phong trào văn hóa cách mạng ở Việt Nam ngay từ những năm tháng mới được thành lập là bản Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khởi thảo và công bố với 3 nội dung chính: dân tộc, khoa học, đại chúng. Xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, bản Đề cương đã trình bày hệ thống các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nguyên tắc, nhiệm vụ… của cuộc vận động văn hóa dân tộc Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam lúc đó đang trong quá trình đấu tranh và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp.

Bản “Đề cương về Văn hóa Việt Nam” do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943, được đăng toàn văn trên Tạp chí Tiên Phong số 1. Ảnh: baotanglichsu.vn

Với phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật Việt Nam lúc này cần tập trung vào xây dựng nền văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính đại chúng và mang tính khoa học, bản Đề cương văn hóa năm 1943 có thể coi là cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay cả trong những năm sau đó, những chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp của bản Đề cương đã phát huy tối đa sức mạnh văn hóa và đã góp phần quan trọng đem đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì thế, Đề cương văn hóa được coi như là tuyên ngôn, đường lối văn hóa của Đảng, định hướng đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, tập hợp, cổ vũ các nhà hoạt động văn hóa đứng vào trận tuyến đấu tranh của dân tộc.

- Văn hóa soi đường cho quốc dân đi

Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người chỉ rất rõ mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Cùng với chính trị và kinh tế, văn hoá Việt Nam giữ một vai trò và vị trí trọng yếu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Văn hóa cách mạng Việt Nam khi ấy không chỉ nhằm đấu tranh trực diện chống lại văn hóa phản động của thực dân Pháp đang áp đặt lên nước ta, mà còn phản ánh được quy luật vận động và phát triển tất yếu của văn hóa.

Năm 1951, tại Đại hội II, Đảng ta thông qua Luận cương cách mạng Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ: “Xây dựng nền văn hóa dân chủ nhân dân Việt Nam có ba tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hoá tư tưởng, xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc-khoa học-đại chúng bao hàm nội dung hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người và nâng lên một tầm cao mới giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam tiếp tục được phát triển trong suốt nhiều năm tháng sau đó. Đây là kim chỉ nam cho các hoạt động văn hoá, văn nghệ, tạo sự đoàn kết thống nhất tư tưởng, động viên văn nghệ sĩ nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Như vậy, với tinh thần “văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951), sự lãnh đạo kiên trì của Đảng với đường lối phát triển văn hóa dân tộc, trong giai đoạn từ 1945 đến 1975, văn hóa cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp thực sự lớn lao, tạo nên sức mạnh tinh thần, tư tưởng to lớn cùng với sức mạnh chính trị, quân sự, kinh tế trong chiến lược tổng hợp để chiến thắng kẻ thù xâm lược, đem đến những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giành lại thống nhất đất nước.

- Nền tảng tinh thần của xã hội

Sau khi thống nhất đất nước, cùng với việc xây dựng, củng cố chế độ chính trị và xây dựng, phát triển kinh tế, toàn quốc hướng đến mục tiêu lớn là xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về văn hóa từ việc xác định vị trí, vai trò cũng như trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa cách mạng, tiếp nhận các giá trị văn hóa của dân tộc và thời đại. Gắn chặt nội dung và tinh thần của sự nghiệp đổi mới "Đổi mới là văn hóa, văn hóa là đổi mới" (Thủ tướng Phạm Văn Đồng), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 của Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đề cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định đồng thời vừa xây dựng kinh tế, vừa phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển. Tiếp theo đó, Đảng đã xác định: "Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người" (Nghị quyết 05-NQ/TW, ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa”).

Có thể nói đây là một bước ngoặt trong nhận thức của Đảng về đổi mới văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Cũng trong thời gian này, trên thế giới, tư duy của nhân loại về văn hóa cũng đã có những nhận thức mới, thể hiện trong quan điểm của UNESCO về "Thập kỷ phát triển văn hóa" (1987-1996), trong đó, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ và một số lĩnh vực khác.

Kế thừa tinh thần này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định văn hóa cùng với giáo dục-đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) ghi nhận một nấc thang mới trong phát triển văn hóa cách mạng của Đảng khi chủ trương: “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ” (Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng đã lần đầu tiên đưa ra quan niệm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII). Đây là luận điểm mới mẻ, sáng tạo nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển, nhấn mạnh vị thế, vai trò của văn hóa đối với chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội.

- Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Sau 10 năm đồng hành cũng sự nghiệp đổi mới, trên tổng thể những thành tựu trong phát triển văn hóa không bắt kịp sự tăng trưởng kinh tế. Sự tấn công thầm lặng nhưng hết sức dữ dội từ mặt trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những diễn biến phức tạp trong sự phát triển của văn hóa. Trước tình hình ấy, Đại hội VIII của Đảng năm 1996 đã nhận ra vai trò, vị trí quan trọng của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, từ đó đặt ra vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại” (Biên niên sử các Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam). Với quan điểm chỉ đạo này, lần đầu tiên Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa gắn liền với hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng công cuộc đổi mới.

Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7/1998), Đảng ban hành Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII xác định mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế: “Hai vấn đề về văn hóa và kinh tế-xã hội gắn chặt nhau, vừa là những vấn đề cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt”. Khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, Nghị quyết đã nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” và nhấn mạnh: “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế-xã hội, pháp luật, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh vai trò nhân tố con người và văn hóa, đó là góp phần quan trọng gia tăng sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp để tạo lập nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, đồng thời là động lực, là nguồn lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.

Để cụ thể hóa việc phát huy nguồn lực văn hóa cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. Trong đó, Nghị quyết đề cập đến chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa; đồng thời, bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế hỗ trợ nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.

- Gắn mục tiêu xây dựng văn hóa với xây dựng con người

Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong Nghị quyết này, Đảng ta nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội.

“Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12/4/2012) cũng khẳng định quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân…

Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Đảng ta khẳng định một trong những quan điểm phát triển là mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đây là một trong ba khâu đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.

Đại hội XIII của Đảng đã xác định những quan điểm, chủ trương rất mới, sâu sắc và toàn diện, đột phá về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực; xác định ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục đào tạo; đẩy mạnh và thúc đẩy, đa dạng hóa các loại hình và hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam...

Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là chủ trương, đường lối đúng đắn, là cơ sở quan trọng để Nhà nước thể chế hóa, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả, phù hợp với bối cảnh mới để khai thông nguồn lực văn hóa và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.

           Phương Dung (tổng hợp)