Thị xã Xuân Lộc (tỉnh lị tỉnh Long Khánh, nay là thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) nằm trên 3 trục đường giao thông quan trọng là quốc lộ 1, đường 20 (Sài Gòn - Đà Lạt) và đường 15 (Sài Gòn - Vũng Tàu), cách Sài Gòn 60 km về phía đông bắc, nằm trong khu vực phòng thủ trọng yếu trên tuyến phòng thủ cơ bản Biên Hòa - Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau khi Đà Nẵng thất thù (29.3), Chính quyền và Quân đội Sài Gòn gấp rút tổ chức tuyến phòng thủ mới từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, nhằm ngăn chặn cuộc tiên công của Quân giải phóng theo quốc lộ 1 và đường 20 đánh vào Biên Hòa, Sài Gòn. Lực lượng Quân đội Sài Gòn phòng thủ trọng điểm Xuân Lộc có Sư đoàn Bộ binh 18 (3 chiến đoàn 43, 48, 52), Tiểu đoàn Biệt động quân 82, Thiết đoàn Kị binh 5, 9 tiểu đoàn bảo an được chi viện hỏa lực pháo binh, không quân đặt dưới quyền Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh Sư đoàn 18); trong quá trình chiến dịch, địch tăng cường thêm Lữ đoàn Dù 1, Trung đoàn Bộ binh 8 (Sư đoàn 5), 1 liên đoàn biệt động quân và 1 trung đoàn thiết giáp.
Để tạo thế và lực chuẩn bị giải phóng Sài Gòn - Gia Định, ngày 2.4, Bộ tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch tiến công giải phóng thị xã Xuân Lộc, nhằm tiêu diệt lực lượng địch ở vòng ngoài, phá âm mưu phòng ngự từ xa, chia cắt giao thông, cô lập và phá thế phòng thủ của địch, mở đường giải phóng Sài Gòn. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4), Sư đoàn Bộ binh 6 (Quân khu 7), Lữ đoàn Pháo phòng không 71, 2 tiểu đoàn xe tăng (12 chiếc), Lữ đoàn Pháo binh 24 (12 pháo 122 mm, 4 pháo 130 mm), Lữ đoàn Công binh 25, Lữ đoàn Thông tin 26 và một số tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương; cuối chiến dịch được tăng cường thêm Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325) và 1 đại đội xe tăng. Đề bảo đàm cho chiến dịch Đoàn 814 (Cục Hậu cần Miền) và hậu cần Quân khu 7 đã lập kho dự trữ hậu cần tập trung ở khu vực suối Tre, nam sông La Ngà, đông Cảm Mĩ, riêng các kho gần Xuân Lộc dự trữ 7.500 tấn gạo. Tư lệnh chiến dịch Hoàng Cầm (Tư lệnh Quân đoàn 4), sở chỉ huy Chiến dịch ở phía bắc sông La Ngà.

 

Sau khi nghiên cứu tình hình chiến trường, Bộ tư lệnh Chiến dịch đề ra 2 phương án tác chiến: phương án 1, tập trung 2 sư đoàn tiêu diệt Sư đoàn 18 của địch, giải phóng chi khu Xuân Lộc và khu vực từ ngã ba Dầu Giây đến núi Chứa Chan, đồng thời sử dụng 1 sư đoàn bao vây, chia cắt địch ở Gia Kiệm, Túc Trưng, diệt quân ứng cứu, giải phóng Gia Kiệm - Dầu Giây, đường 20; phương án 2, nếu tình huống không thuận lợi thì tập trung lực lượng diệt địch ở vòng ngoài, giải phóng 2 chi khu Tân Phong và Gia Kiệm, diệt viện binh, tiến tới dứt điểm Long Khánh và đánh địch rút chạy. Hướng tiến công chủ yếu từ phía đông bắc và hướng thứ yếu từ phía bắc thị xã Xuân Lộc. Chiến dịch diễn ra qua 2 đợt.
Đợt 1 (9-11.4), tập trung đột phá thị xã Xuân Lộc. 5 giờ 30 phút ngày 9.4, ta đồng loạt nổ súng. Trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) được tăng cường 8 xe tăng tiến công căn cứ Sư đoàn 18. Bị địch đánh chặn quyết liệt phá hỏng 3 xe tăng, trung đoàn phải chuyển hướng tiến công, chiếm được một phần hậu cứ Chiến đoàn 52. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 266 của Sư đoàn 341 (thiếu Tiêu đoàn Bộ binh 8) tiến công đánh chiếm khu thông tin, khu nhà cố vấn Mĩ, cảnh sát, bảo an và khu chợ, nhưng khi tiến công vào dinh tỉnh trưởng bị địch đánh chặn quyết liệt, phải tạm dừng bên ngoài sở chỉ huy tiểu khu. Trong khi đó ở vòng ngoài, Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341) phối hợp với Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) đánh bại 2 tiểu đoàn, của 2 chiến đoàn (43, 48) từ Tân Phong và núi Thị vào ứng cứu, bắt 174 quân địch, giải phóng ấp Bảo Toàn. Cùng lúc tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Bà Rịa tiến công địch ở suối Cát đồng thời Sư đoàn 6 diệt 5 chốt trên quốc lộ 1, buộc Tiểu đoàn 1 (Chiến đoàn 52 của địch) phải lui về cố thủ ở ngã ba Dầu Giây. Trong ngày đau, ta chiếm được một phần thị xã, toàn bộ khu hành chính tiểu khu, đưa 3 tiểu đoàn luồn sâu vào bên trong và thực hiện chia cắt địch ở ngã ba Dầu Giày - đèo Mẹ Bồng Con.
Ngày 10.4, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 141 và 1 tiểu đoàn pháo phòng không đột phá từ hướng bắc xuống, cùng với Trung đoàn 165 đánh căn cứ Sư đoàn 18, bị lực lượng địch ờ hậu cứ Chiến đoàn 52 và Trung đoàn Thiết giáp 5 phản kích dữ dội. Đến trưa, Trung đoàn 141 chiếm được chốt Bảo Vịnh A; đồng thời Trung đoàn 209 từ phía nam tiến công thị xã, đánh thiệt hại hậu cứ Chiến đoàn 43. Trên hướng thứ yếu, Trung đoàn 270 (thiếu Tiểu đoàn Bộ binh 5) tiến vào thị xã cùng với Trung đoàn 266 đánh địch phản kích; tiếp đó Trung đoàn 266 (được tăng cường Tiểu đoàn Bộ binh 5 của Trung đoàn 270 thay thế Tiểu đoàn Bộ binh 8) và Tiểu đoàn 7 bốn lần tiến công vào sân bay Cáp Rang nhưng không thành công. Các mũi khác của ta đánh vào trại Lê Lợi, hậu cứ Chiến đoàn 43 cũng bị chặn lại, chỉ có Trung đoàn 33 (Sư đoàn 6) tiến công làm chủ chi khu Dầu Giây, đánh bại cuộc phản kích của Tiểu đoàn 1,1 chi đội thiết giáp và 1 tiểu đoàn biệt động. Ngày 11.4, trên các hướng tiến công vào Xuân Lộc, ta và địch đánh giằng co quyết liệt.
Ngày 12.4, địch điều Lữ đoàn Dù 1 từ Sài Gòn đến ngã ba Tân Phong; Lữ đoàn Thủy quân lục chiến 3 và Chiến đoàn Biệt động 318 đến Trảng Bom; Chiến đoàn Biệt động 322 và Trung đoàn 8 (Sư đoàn 5) đến Bàu Cá, Chiến đoàn 315 ở Bàu Hàn và điểm cao 122; sử dụng không quân từ các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất chi viện 80-125 lần chiếc/ngày. Qua 3 ngày chiến đấu, tuy đã diệt được một bộ phận sinh lực địch, chiếm một số mục tiêu, nhưng ta không diệt gọn được tiểu đoàn địch, bộ đội bị thương vong nhiều (Sư đoàn 7: 300 người, Sư đoàn 341: gần 1.200 người), 6 xe tăng bị bắn hỏng, hầu hết pháo 85 mm và 57 mm bị hỏng. Trước tình hình đó, ngày 12.4, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định thay đổi kế hoạch tác chiến theo hướng bao vây cô lập, chia cắt Xuân Lộc và Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt quốc lộ 1, chặn địch từ Trảng Bom lên và đánh chiếm Tân Phong, cắt đường liên tỉnh 2 đi Bà Rịa. Thực hiện quyết định trên, ngày 13.4, tạm ngừng tiến công Xuân Lộc, mỗi sư đoàn sừ dụng 1 tiểu đoàn đánh nghi binh kiềm chế, còn lại lực lượng triển khai thế trận theo phương án tác chiến mới. Theo đó, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B (mới tăng cường) có nhiệm vụ diệt Chiến đoàn 52, chốt chặn địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích; Trung đoàn 209 triển khai ở bắc chi khu Tân Phong không cho Lữ đoàn Dù 1 vượt cầu Gia Liên phối họp với Trung đoàn 43. Trong khi ta đang tạo thế trận mới, Tổng thống Chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu cũng ra sức tuyên truyền về “chiến thắng Xuân Lộc” và hi vọng giữ vững chế độ.

 
Xe tăng, bộ binh Quân đoàn 4 tiến vào giải phóng Xuân Lộc

Đợt 2 (15-20.4), bao vây cô lập Xuân Lộc, đánh viện binh. Rạng sáng 15.4, pháo 130 mm bắn phá sân bay Biên Hòa, đồng thời Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B tổ chức 5 trận tập kích vào các vị trí địch, tiêu diệt Chiến đoàn 52, diệt gọn 1 tiểu đoàn pháo binh và 1 chi đoàn thiết giáp, giải phóng chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt giao thông quốc lộ 1 (Xuân Lộc - Bầu Cá) và đường 20 (Túc Trưng - ngã ba Dầu Giây). Ngày 16-17.4, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 của địch gấp rút điều Lữ đoàn Thiết giáp 3, Chiến đoàn 8 (Sư đoàn 5), có hơn 100 pháo ở các căn cứ xung quanh và máy bay chi viện hỏa lực, mở các cuộc phản kích nhằm chiếm lại khu vực Dầu Giây, nhưng bị ta đánh chặn quyết liệt ở Hưng Nghĩa, điểm cao 122, diệt gọn 1 tiểu đoàn, bắt hàng trăm tù binh, đẩy lùi địch xuống Bàu Cá. Tại Xuân Lộc các sư đoàn 7 và 341 liên tục tiến công địch, đánh thiệt hại nặng 2 chiến đoàn 43 và 48, diệt một bộ phận quân dù. Bộ đội địa phương cùng du kích Xuân Lộc tiến công tiêu diệt, bức rút nhiều đồn bốt địch trên các trục đường ven thị xã. Để cứu nguy Xuân Lộc, Quân đội Sài Gòn sử dụng bom CBU-55 có sức hủy diệt lớn, gây nhiều thiệt hại cho quân và dân ta nhưng cũng không thay đổi được tình thế.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 của địch lệnh cho Sư đoàn 18 rút chạy theo tỉnh lộ 2.20 giờ ngày 20.4, địch dùng pháo bắn vào các trận địa của ta để nghi binh và rút về Đức Thạnh (tỉnh Phước Tuy), sau đó về Long Bình. Phát hiện địch rút chạy, Bộ tư lệnh lệnh cho các sư đoàn truy kích và triển khai chốt chặn. Tuy nhiên, do việc phát hiện, tổ chức tiến công và truy kích chậm, việc tổ chức chốt chặn không tốt, trong khi trời tối, mưa to, nên các đơn vị chỉ tiêu diệt được một bộ phận quân địch rút chạy phía sau. Cùng thời gian, Đại đội 41, bộ đội địa phương huyện Châu Đức chặn đánh địch ở tiểu khu Long Khánh rút chạy, bắt đại tá, tỉnh trưởng tỉnh Long Khánh.
Chiến dịch Xuân Lộc kết thúc thắng lợi, ta đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 18, Lữ đoàn Dù 1, loại khỏi vòng chiến đấu Chiến đoàn 52, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 5 và Lữ đoàn Thiết giáp 3, trong đó diệt và bắt hơn 4.800 quân địch, thu 48 xe quân sự, 1.499 súng các loại, phá hủy 42 xe tăng, xe thiết giáp, 16 xe quân sự, giải phóng thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh, uy hiếp tuyến phòng thủ Biên Hoà - Ho Nai, tạo bàn đạp tiến công Sài Gòn từ hướng đông và đông nam. Trong Chiến dịch Xuân Lộc, riêng Quân đoàn 4 có 569 cán bộ, chiến sĩ hi sinh và mất tích, 1.530 người bị thương.
Chiến dịch Xuân Lộc góp phần phá vỡ tuyến phòng thủ trọng yếu của địch, tạo địa bàn cho các quân đoàn chủ lực và lục lượng vũ trang địa phương tiến công từ hướng đông, đông nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong đợt 1 chiến dịch, do địch tập trung lực lượng phòng thủ mạnh, trong khi công tác chuẩn bị lực lượng, chọn hướng tiến công và phương án tác chiến của ta chưa phù hợp, đẫn đến kết quả hạn chế, bộ đội thương vong nhiều. Bước sang đợt 2, Bộ tư lệnh Chiến dịch kịp thời thay đổi cách đánh, chuyển đội hình tiến công sang bao vây Xuân Lộc và đánh viện là đúng đắn, cần thiết, đây là yếu tố quan trọng để giành thắng lợi, đồng thời để lại bài học kinh nghiệm quý báu về nắm địch và định hướng tiến công, sử dụng lực lượng và cách đánh chiến dịch, tiến công cụm cứ điểm phòng ngự vững chắc của địch trong thành phố.

Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)