05. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 2020)

“Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.

(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.549)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội, đã hoạch định đường lối Đổi mới và mở đầu quá trình Đảng lãnh đạo công cuộc Đổi mới ở Việt Nam.

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, rút ra bốn bài học kinh nghiệm lớn và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, mở ra bước ngoặt mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần dựa trên thực tiễn của đất nước và luận điểm coi sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là một đặc trưng cơ bản của thời kỳ quá độ. Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới cơ chế quản lý, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kết hợp kế hoạch với thị trường. Để bảo đảm cho cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới vận hành có hiệu quả đòi hỏi phải đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao năng lực và vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và tăng cường mở rộng hợp tác với các nước.

Đại hội VI đã đề ra nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong chặng đường tiếp theo”, đề ra 3 chương trình kinh tế lớn: chương trình sản xuất lương thực - thực phẩm, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu. Đại hội đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư của Đảng.

Sau Đại hội VI, tình hình kinh tế - xã hội gặp rất nhiều khó khăn thách thức. Lương thực, hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng, lạm phát năm 1987 lên tới 774,7%. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải kịp thời cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối Đổi mới của Đại hội VI, sửa chữa những khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo. Tháng 4/1987, Hội nghị Trung ương lần thứ 2 chủ trương giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (8/1987) quyết định “Chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý Nhà nước về kinh tế”. Tháng 11/1987, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định 217 về giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp. Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 2 thông qua Luật Đầu tư nước ngoài. Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10- NQ/TƯ đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Những chủ trương, chính sách kịp thời đó đã làm chuyển biến nền kinh tế - xã hội theo hướng tích cực.

Trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, sự khủng hoảng sâu sắc và trầm trọng diễn ra ở các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chiến đấu bảo vệ chủ quyền biển đảo với trận chiến đấu ngày 14/3/1988 trên đảo Gạc Ma (Trường Sa), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (3/1989) đã đề ra 12 chủ trương, chính sách lớn tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đồng thời xác định năm nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Những nguyên tắc do Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đề ra cùng các nghị quyết của các hội nghị Trung ương khác của khóa VI về công tác xây dựng Đảng, công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng v.v., đã bảo đảm cho sự nghiệp Đổi mới phát triển đúng hướng và giành được những thành tựu bước đầu. Các năm 1989, 1990 kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc. Thu nhập quốc dân 1986-1990 tăng bình quân năm là 3,9%, lạm phát chỉ còn 67,1% vào năm 1990. Năm 1989, Việt Nam đã xuất khẩu trên một triệu tấn gạo, đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo.

Từ thực tiễn công cuộc Đổi mới, công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận được coi trọng. Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh bước đầu được nghiên cứu có hệ thống, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người (19/5/1890 - 19/5/1990), Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội, từ ngày 24 đến 27/6/1991 đã đánh giá 5 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, nêu ra những bài học bổ ích để tiếp tục lãnh đạo có hiệu quả sự nghiệp Đổi mới. Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đại hội khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đại hội đã bầu đồng chí Đỗ Mười làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội VII của Đảng chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(1).

Sau Đại hội VII, mặc dù chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô, song công cuộc Đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn được giữ vững và phát triển.

Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa VII tập trung bàn và giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết của đất nước. Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (11/1991) và lần thứ 8 (1/1995) chủ trương xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách nền hành chính Nhà nước. Thể chế hóa đường lối Đại hội VII, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 11, đã thông qua Hiến pháp 1992 nhằm xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thảo luận và quyết định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (6/1992). Quan điểm, chính sách phát triển nông nghiệp, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được quyết định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (6/1993). Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (7/1994) nêu lên những quan điểm, mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ họp tháng 1/1994 đã khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng về Đổi mới là đúng đắn, có bước đi thích hợp. Cùng với sự khẳng định thành tựu, Hội nghị nêu ra 4 nguy cơ, đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Những mục tiêu mà Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra cho những năm 1991-1995 đã được thực hiện, trong đó có nhiều chỉ tiêu vượt mức đề ra: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 8,2%/năm. Lương thực đạt 27,5 triệu tấn/năm; lương thực bình quân đầu người từ 280,7 kg năm 1987 tăng lên 371,8kg năm 1995. Ba chương trình kinh tế lớn do Đại hội VI đề ra đạt kết quả cao. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh; tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế; cùng với chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đã thúc đẩy phát triển quan hệ đối ngoại. Đến cuối năm 1995, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 160 nước. Ngày 28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 28/6 đến 1/7/1996. Đánh giá 10 năm Đổi mới, Đại hội VIII khẳng định: “Công cuộc Đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng”. “Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc”, “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”(2). Đại hội cũng tổng kết 6 bài học có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Sau Đại hội VIII, nhiều vấn đề chiến lược được các Hội nghị Trung ương bàn và quyết định. Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (12/1996) có Nghị quyết về “Định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo và định hướng phát triển khoa học và công nghệ”. Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (6/1997) ra “Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh” và “Nghị quyết về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 (12/1997), đồng chí Đỗ Mười xin rút khỏi chức Tổng Bí thư và đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư mới. Các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (7/1998) đã ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) ra Nghị quyết về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”.

Công cuộc Đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển mặc dù có khó khăn do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực những năm 1997-1999. Các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (8/1999), lần thứ 8 (11/1999) tập trung lãnh đạo, chỉ đạo về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhằm thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội. Tại Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2000), Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã có bài diễn văn quan trọng đánh giá thành tựu và bài học 70 năm lãnh đạo của Đảng và xác định phương hướng của thời kỳ mới, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tiếp tục sự nghiệp Đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19 đến 22/4/2001 tại thủ đô Hà Nội. Đại hội đã nhìn lại một cách tổng quát chặng đường lịch sử 70 năm cách mạng Việt Nam (1930-2000), kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII (1996-2001), tổng kết 15 năm đổi mới (1986-2001).

Đại hội IX của Đảng dự báo “Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005; thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi gồm 12 chương, 48 điều. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.

Sau Đại hội IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp các hội nghị toàn thể và có những quyết định quan trọng, cụ thể hóa đường lối và chiến lược của Đại hội. Trung ương đã cho ý kiến về xây dựng Nhà máy Thủy điện Sơn La tại Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (9 và 10/6/2001); thông qua đề án “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” tại Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (13 đến 22/8/2001); cho ý kiến về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 và bầu cử Quốc hội khóa XI tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (5 đến 13/11/2001).

Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (18/2 đến 2/3/2002) ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể; Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010; Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (từ ngày 4 đến 15/7/2002) thảo luận và kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, đề ra phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ đến năm 2005 và năm 2010; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức và cán bộ.

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (phần II) (từ ngày 13 đến 21/1/2003) ra Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết về công tác dân tộc; Nghị quyết về công tác tôn giáo; Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong khi nhấn mạnh đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (từ ngày 2 đến 12/7/2003) đã bàn và quyết định phương hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; góp ý kiến vào Đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công. Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (từ ngày 5 đến 12/1/2004) ra nghị quyết về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Hội nghị Trung ương lần thứ 10 (từ ngày 5 đến 10/7/2004) kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25/4/2006 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội IX, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010); đánh giá 20 năm Đổi mới trên cơ sở tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện quan điểm, đường lối định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng, bổ sung, sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng; bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X.

Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm (2001-2005) là 7,5% và phát triển tương đối toàn diện, văn hóa, xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới, hệ thống chính trị được củng cố, công tác xây dựng Đảng đạt được một số kết quả tích cực.

Đại hội khẳng định 20 năm Đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng và có sự thay đổi cơ bản, toàn diện; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc Đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”(3).

Từ thực tiễn 20 năm Đổi mới, Đại hội X tổng kết một số bài học. Đại hội X nhấn mạnh việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ 3 (7/2006) đã ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hội nghị cũng thông qua Quy định Đảng viên làm kinh tế tư nhân.

Ngày 7/11/2006, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đất nước đứng trước những cơ hội phát triển đồng thời cũng có những thách thức mới. Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (từ ngày 15 đến 24/1/2007) đã ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nghị quyết về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; về phương hướng bầu cử và chuẩn bị nhân sự Quốc hội khóa XII.

Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (từ ngày 5 đến 14/7/2007) thảo luận các đề án và thông qua các nghị quyết: về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.

Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (từ ngày 14 đến 22/1/2008) đã thực hiện các đề án và thông qua các nghị quyết: Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước; Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị cũng có kết luận về cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008-2012.

Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (từ ngày 9 đến 17/7/2008) đã ra các nghị quyết: Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Trước tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (từ ngày 2 đến 4/10/2008) đã xem xét những vấn đề kinh tế - xã hội, quyết định ngân sách nhà nước năm 2008 và định hướng năm 2009. Hội nghị chủ trương tiếp tục thực hiện Kết luận số 22.KL/TƯ của Bộ Chính trị ngày 4/4/2008 và Nghị quyết của Chính phủ ngày 17/4/2008 với 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 12 đến ngày 19/1/2011 tại Thủ đô Hà Nội.

Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; Phương hướng, nhiệm vụ chính trị 5 năm 2011-2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi). Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào thoái trào từ năm 2008, trong 10 năm 2001-2010, kinh tế Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7,26%/năm. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 tăng gấp 3,26 lần năm 2000; GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD, thuộc các nước có thu nhập trung bình. Đại hội XI đề ra mục tiêu 5 năm 2011-2015 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,0-7,5%; GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2%/năm. Tuổi thọ trung bình đến năm 2015 đạt 74 tuổi.

Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Hội nghị Trung ương 3 khóa XI (10/2011) đã có những chủ trương và quyết định cụ thể về cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (12/2011) đã có đề án về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, làm rõ một trong 3 đột phá chiến lược. Chủ trương tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước được đề ra tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XI (10/2012).

Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là bảo đảm cho công cuộc đổi mới phát triển vững chắc đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (5/2013) đã ban hành kết luận về một số vấn đề tiếp tục đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về tổ chức, nhiệm vụ, chức năng, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Chú trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (5/2012) đã chủ trương và chỉ đạo việc sửa đổi Hiến pháp 1992. Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6, đã thông qua Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều 4). Hiến pháp đã có 35 điều từ Điều 14 đến Điều 49 ở Chương II quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tiếp tục làm rõ những nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Đại hội XI của Đảng và các Hội nghị Trung ương chú trọng các chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Chú trọng xây dựng nông thôn mới theo 19 tiêu chí Chính phủ đã ban hành. Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (5/2012) đã quyết định những vấn đề về chính sách xã hội, tiền lương và bảo hiểm. Hội nghị Trung ương 7 khóa XI (5/2013) nhấn mạnh vấn đề chống biến đổi khí hậu và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (10/2013) ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (5/2014) đã ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (10/2013) đã đề ra Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Đại hội XI chủ trương triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Năm 2015, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 186 nước và quan hệ đối tác chiến lược với 15 quốc gia.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại thủ đô Hà Nội từ ngày 21 đến ngày 28/1/2016. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và tổng kết 30 năm đổi mới, đề ra phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ 5 năm 2016-2020. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Đại hội khẳng định đất nước đã giành được những thành tựu quan trọng, song vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục. Những hạn chế, khuyết điểm có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do yếu tố chủ quan, nhất là công tác chỉ đạo, điều hành và khả năng dự báo còn hạn chế.

Nhìn lại quá trình đổi mới (1986- 2016), Đại hội chỉ rõ: “Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững...”(4).

Từ những thành tựu, cũng như những hạn chế, khuyết điểm qua 30 năm đổi mới, Đại hội đã rút ra 5 bài học có giá trị lý luận và thực tiễn để tiếp tục thúc đẩy đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Đại hội XII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát trong 5 năm 2016-2020: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(5).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Trung ương Đảng và Chính phủ tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển theo các quy luật của kinh tế thị trường, nhất là quy luật giá trị sản xuất hàng hóa, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, tăng năng suất lao động. Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10/2016) quyết định một số chính sách về đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Đại hội XII của Đảng chú trọng xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện Chỉ thị 05 gắn liền với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc chống suy thoái trong Đảng, nhất là chống tham nhũng đã đạt được những kết quả tích cực, củng cố niềm tin của nhân dân.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (5/2017) ban hành các nghị quyết về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội nghị Trung ương 6 khóa XII (10/2017) thống nhất ban hành các nghị quyết Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; về công tác dân số trong tình hình mới.

Hội nghị Trung ương 7 khóa XII (5/2018) ban hành nghị quyết về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; về các chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp; về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (10/2018) thống nhất ban hành nghị quyết về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; ban hành Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và thống nhất giới thiệu đồng chí Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng để Quốc hội bầu giữ chức vụ Chủ tịch nước. Quốc hội khóa khóa XIV, kỳ họp thứ 6, ngày 23/10/2018 đã bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (thay Chủ tịch nước Trần Đại Quang, từ trần ngày 21/9/2018).

Năm 2018, lần đầu tiên cả 12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều đạt và vượt mức kế hoạch; tăng trưởng GDP đạt 7,08%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.590USD. Năm 2019, tăng trưởng kinh tế ước đạt trên 6,8%. Đến nay có 71 quốc gia công nhận Việt Nam có quy chế kinh tế thị trường đầy đủ.

Đảng và Nhà nước chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đã tổ chức thành công diễn đàn APEC (11/2017), tổ chức tốt cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ-Triều Tiên (2/2019). Chuẩn bị về mọi mặt để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN (2020) và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.

Việt Nam tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 1/1/2019. Năm 2020, Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) và 75 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945), toàn Đảng, toàn dân phấn đấu hoàn thành tốt nhất Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2021. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay”.

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.147.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.67 - 68.

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.68.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, sđd, tr.76.