Sau chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã nhanh chóng bắt tay tiến hành khôi phục kinh tế.

Năm 1955, ở miền Bắc lực lượng công nhân, viên chức thuộc khu vực sản xuất vật chất có khoảng 76.000 người. Số công nhân, viên chức trong các ngành công nghiệp quốc doanh là 21.200 người, trong đó số công nhân trực tiếp sản xuất là 17.000 người, và hơn 16.000 công nhân làm thuê trong các xí nghiệp tư bản tư doanh thuộc nhiều ngành và một lực lượng thợ thủ công khoảng 298.000 người. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có 1.100 công đoàn cơ sở và 14 vạn đoàn viên công đoàn.

Hội nghị cán bộ công đoàn toàn miền Bắc, năm 1956, đã xác định công đoàn phải chuyển dần toàn bộ hoạt động của mình vào việc tổ chức và động viên công nhân, lao động tham gia khôi phục sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống, tăng cường ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân lao động miền Nam chống lại sự đàn áp khủng bố của Mỹ- Diệm.

Những hoạt động tích cực của phong trào công nhân và Công đoàn đã góp phần khôi phục kinh tế ở miền Bắc nói chung và công nghiệp miền Bắc nói riêng. Đến cuối năm 1957, tỉ trọng công nghiệp tuy còn thấp nhưng đã chiếm 17,28% thu nhập quốc dân.

Để có cơ sở pháp lý cho hoạt động công đoàn, ngày 5/11/1957, Chủ tịch nước ra Sắc lệnh số 108-SL/L10 ban hành Bộ luật Công đoàn. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao vị thế của Công đoàn Việt Nam.

Cho đến năm 1960, số lượng đoàn viên công đoàn có 308.386 người với 2.501 công đoàn cơ sở được phân bổ ở hầu hết các xí nghiệp, công trường, nông trường, cơ quan. Số lượng cán bộ công đoàn chuyên trách từ cơ sở đến Trung ương là 2653 người. Đội ngũ cán bộ công đoàn không những phát triển về số lượng mà còn tăng nhanh cả về chất lượng.

Trong thời kỳ 1954-1960, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tăng cường các hoạt động đối ngoại nhằm trao đổi kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực với các tổ chức Công đoàn các nước trên thế giới, đặc biệt là tổ chức Công đoàn các nước XHCN. Thông qua hoạt động quốc tế, mối quan hệ hữu nghị, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp công nhân thế giới được tăng cường, tạo điều kiện cho nhân dân ta tiến hành cách mạng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.                                    

Ở miền Nam, công nhân, lao động tiếp tục cuộc đấu tranh chống Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm trong điều kiện vô cùng khó khăn. Hàng hóa Mỹ và một số nước tư bản tràn vào miền Nam làm cho các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp miền Nam bị đình đốn. Năm 1958, có hơn 80% công nhân ngành Dệt bị sa thải. Năm 1959, số người thất nghiệp ở toàn miền Nam lên tới 1,5 triệu người.

Trong khi đó, Mỹ-Diệm ra sức khủng bố “chống cộng”, “Thanh khiết nghiệp đoàn”, thực hiện chiêu bài “hòa hợp giai cấp”, “lao tư hưởng lợi”,  “nghiệp đoàn không làm chính trị”, nhằm tiếp tục chia rẽ phong trào công nhân lao động, loại trừ tư tưởng tiến bộ và hạn chế ảnh hưởng của cách mạng trong công nhân.

Trước tình hình cực kỳ khó khăn của cách mạng miền Nam, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở trong nội thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân  phát triển lực lượng, tổ chức cho công nhân đấu tranh. Vì vậy, từ năm 1954 đến cuối năm 1960 trên toàn miền Nam đã có trên 2.300 cuộc đấu tranh của công nhân lao động, tiêu biểu là cuộc xuống đường biểu tình của gần 50 vạn công nhân lao động Sài Gòn ngày 1/5/1958, cuộc biểu dương lực lượng của công nhân lao động, ngày 1/5/1959 của hơn 20 vạn công nhân lao động và nhân dân ở các thành phố lớn ở miền Nam như: Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Sài Gòn-Chợ Lớn…

Phong trào công nhân lao động miền Nam trong những năm 1954-1960 đã diễn ra mạnh mẽ, đều khắp với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng có tác dụng to lớn đối với phong trào đấu tranh chung của các tầng lớp nhân dân miền Nam nhằm đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Phong trào đã liên kết được công nhân nhiều ngành nghề, nhiều địa phương, nhiều tầng lớp nhân dân lao động tham gia. Qua đó, đội ngũ công nhân lao động miền Nam được tôi luyện, trưởng thành.