4. Quan hệ Nhật Bản với Việt Nam
Trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Nhật Bản là nước G7 đầu tiên đón Tổng Bí thư Việt Nam đi thăm (năm 1995), nước G7 đầu tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam (năm 2009), nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011), nước G7 đầu tiên mời Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng (5/2016).
1. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao: 21/9/1973
2. Khuôn khổ quan hệ
Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở Châu Á (thiết lập tháng 03/2014 nhân chuyến thăm cấp nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang).
3. Giao lưu, trao đổi đoàn
Quan hệ giữa hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, có sự tin cậy cao. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, gần đây có:
Lãnh đạo Nhật Bản thăm Việt Nam: Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam tổng cộng 12 lần[1]; Chủ tịch Hạ viện thăm Việt Nam tháng 01/2002 và tháng 5/2017;[2] Chủ tịch Thượng viện Yamazaki thăm tháng 12/2015.
Hoàng Thái tử Nhật Bản Naruhito (Nhà vua hiện nay) thăm chính thức Việt Nam tháng 2/2009. Nhà vua Akihito và Hoàng hậu (đã thoái vị, hiện là Thượng Hoàng Nhật Bản) thăm Việt Nam (28/02-5/3/2017); Hoàng tử Nhật Bản Akishino thăm chính thức Việt Nam tháng 6/1999 và thăm với tư cách cá nhân tháng 8/2012.
Lãnh đạo Việt Nam thăm Nhật Bản: Tổng Bí thư ta thăm Nhật Bản 04 lần[3]; Chủ tịch nước thăm Nhật Bản 03 lần[4]; Thủ tướng Chính phủ thăm Nhật Bản 20 lần[5]; Chủ tịch Quốc hội thăm Nhật Bản 04 lần[6].
4. Các cơ chế hợp tác quan trọng
Ủy ban Hợp tác Việt - Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007, đã họp 11 lần); Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản về ngoại giao - an ninh - quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao (từ năm 2010, đã họp 07 lần); Đối thoại Chính sách quốc phòng Việt - Nhật cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2012, đã họp 07 lần); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013, đã họp 06 lần); Ủy ban hỗn hợp về thương mại, năng lượng và công nghiệp (từ 2014, đến nay đã họp 03 lần); Đối thoại Nông nghiệp cấp Bộ trưởng (từ 2014, đến nay đã họp 05 lần); Đối thoại chính sách biển Việt Nam - Nhật Bản cấp Bộ trưởng (thành lập từ tháng 12/2019).
5. Hợp tác kinh tế
Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất, đối tác hợp tác lao động thứ 2, nhà đầu tư số 3, đối tác du lịch thứ 3, thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam.
Về thương mại: Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ 1999.
Trong 3 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước đạt trên 10,6 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 5,3 tỷ USD[7], giảm 0,45% và nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản đạt 5,3 tỷ USD[8], giảm 9,2% so với cùng kỳ năm 2022 (Nguồn: Bộ Công Thương).
Về đầu tư trực tiếp, lũy kế đến 20/03/2023, Nhật Bản có 5.050 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 69,4 tỷ USD, đứng thứ 3 sau Hàn Quốc và Singapore trong tổng số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài).
Về viện trợ phát triển chính thức ODA:
Nhật Bản là nước cung cấp vốn vay bằng đồng Yên cho Việt Nam lớn nhất, tổng giá trị vay tính đến hết năm tài khóa 2020 là 2.812,8 tỷ Yên (tương đương 27,5 tỷ USD), chiếm hơn 26% tổng vốn ký kết vay nước ngoài của Chính phủ).
6. Các lĩnh vực khác
Hợp tác nông nghiệp có bước đột phá từ năm 2014 trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Hai bên đã ký kết và triển khai Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản (9/2015, ký sửa đổi tháng 5/2018, nhất trí triển khai giai đoạn hai 2020-2024 vào tháng 12/2020).
Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam[9].
Hợp tác lao động: Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã phái cử hơn 350.000 thực tập sinh sang Nhật Bản. Hiện Việt Nam đứng thứ nhất về số lượng thực tập sinh nước ngoài tại Nhật Bản với hơn 200.000 người[10]. Hai bên đã ký (i) Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam[11]; (ii) Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ thực tập sinh kỹ năng (6/2017); (iii) Bản ghi nhớ hợp tác về chế độ Lao động kỹ năng đặc định (5/2019).
Hợp tác giáo dục: Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này[12]. Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện đạt hơn 51.000 người[13]. Nhật Bản đang hợp tác để nâng cấp 04 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao[14]; đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt - Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ; hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường tiểu học, phổ thông cơ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Hai bên đã ký Biên bản hợp tác về các biện pháp giảm thiểu tình trạng du học sinh Việt Nam vi phạm pháp luật tại Nhật Bản (10/2018).
Du lịch: Năm 2019, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đạt 951.962 người, đứng thứ 3, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
Hợp tác lãnh sự: Nhật Bản đã mở Tổng lãnh sự quán tại thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng (01/2022). Ta mở Tổng Lãnh sự quán tại Osaka (3/1997) và Fukuoka (4/2009); bổ nhiệm Lãnh sự danh dự Việt Nam tại thành phố Nagoya (tỉnh Aichi), thành phố Kushiro (Hokkaido), tỉnh Mie.
Từ ngày 01/01/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ ngày 01/7/2004, quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 01/5/2005.
Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/02/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt Nam; đơn giản hóa thủ tục xin visa ngắn hạn dành cho người có vị trí trong xã hội (cán bộ, công chức cơ quan nhà nước, nhân viên doanh nghiệp tư nhân, nhà tri thức - văn hóa) từ ngày 01/3/2019.
Hiện có khoảng 23.000 công dân Nhật Bản tại Việt Nam.
Hợp tác địa phương hai nước: được thúc đẩy mạnh mẽ, địa phương của Việt Nam và Nhật Bản đã ký hơn 70 văn bản hợp tác, trong đó các cặp quan hệ tiêu biểu có Tp. Hồ Chí Minh với Osaka (2007), Nagano (2017), Hà Nội với Fukuoka (2008), Tokyo (2013), Đà Nẵng với Sakai (2009), Yokohama (2013), Phú Thọ - Nara (2014), Huế - Kyoto (2014), Hưng Yên - Kanagawa (2015), Hải Phòng - Niigata (2015)...
Hợp tác phòng chống Covid-19: Nhật Bản viện trợ không hoàn lại hơn 7,4 triệu liều vắc-xin, hơn 4 tỷ yên để cung cấp trang thiết bị, hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện hệ thống y tế. Chính phủ, Quốc hội và địa phương ta hỗ trợ hơn 1,2 triệu khẩu trang cho Nhật Bản; đưa hơn 30.000 công dân Việt Nam về nước. Từ 11/10/2022, Nhật Bản đã nới lỏng quy chế cho phép khách du lịch Việt Nam nhập cảnh.
7. Tình hình cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản
Cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đạt 476.346 người (chiếm 16%, đứng thứ 2 sau Trung Quốc)(thống kê của Bộ Tư pháp Nhật Bản đến tháng 6/2022). Người Việt Nam hiện sinh sống, làm việc và học tập trên khắp 47 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của Nhật Bản, trong đó chủ yếu tập trung tại tỉnh Aichi (hơn 40.000 người) Tokyo (hơn 36.000 người) và các tỉnh Osaka (hơn 35.000 người), Saitama (gần 26.000 người), Chiba (khoảng 20.000 người), Fukuoka (gần 20.000 người).
[1] Murayama 8/1994, Hashimoto 1/1997, Obuchi 12/1998, Koizumi 4/2002 và 10/2005 nhân dự cấp cao ASEM 5, Naoto Kan 10/2010, Shinzo Abe 11/2006, 1/2013, 1/2017 và 11/2017, Suga 10/2020, Kishida 5/2022.
[2] Watanuki 1/2002; Oshima 5/2017.
[3] Tổng Bí thư Đỗ Mười tháng 4/1995; Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 10/2002, 4/2009; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 9/2015.
[4] Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (11/2007), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (3/2014), Chủ tịch nước Trần Đại Quang (5/2018).
[5] Thủ tướng Võ Văn Kiệt (4/1993), Thủ tướng Phan Văn Khải (3/1999, 6/2001, 4/2003, 12/2003, 6/2004, 7/2005); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (10/2006, 5/2009, 11/2009, 10/2011, 4/2012, 12/2013, 7/2015); Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (5/2016, 6/2017, 10/2018, 6/2019, 10/2019); Thủ tướng Phạm Minh Chính (11/2021).
[6] Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (12/1995); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (5/2002); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (3/2008); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (12/2012).
[7] Các nhóm hàng xuất khẩu chính có kim nghạch tăng gồm: phương tiện vận tải và phụ tùng, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng khác, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng thủy sản, máy vi tính và sản phẩm điện tử và linh kiện…
[8] Các nhóm hàng nhập khẩu chính có kim ngạch tăng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, sét thép các loại, chất dẻo nguyên liệu…
[9] Nhật Bản công bố hỗ trợ khẩn cấp không hoàn lại 2,5 triệu USD ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn (chuyến thăm Nhật Bản, dự Hội nghị thượng đỉnh G7 mở rộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc 5/2016), ký công hàm trao đổi cho dự án Quản lý nước Bến Tre (24,79 tỷ Yên).
[10] Số liệu của Cục Quản lý xuất nhập cảnh Nhật Bản tháng 10/2021.
[11] Trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011.
[12] Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản giúp Việt Nam đào tạo 1000 tiến sỹ cho Việt Nam đến năm 2020 (3/2008); Bản ghi nhớ về việc dạy tiếng Nhật tại Việt Nam (5/2013); Bản ghi nhớ về hợp tác đào tạo nguồn nhân lực (8/2013); Chương trình chiến lược về hợp tác giáo dục (3/2014); Thỏa thuận khung về giảng dạy tiếng Nhật ở trường phổ thông Việt Nam (01/2016).
[13] Số liệu của Cục Quản lý xuất nhập cảnh Nhật Bản tháng 10/2021.
[14] Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Tháng 5 năm 2023
[Nguồn Bộ Ngoại giao]