75 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp cách mạng Lào (30/10/1949-30/10/2024): Sứ mệnh quốc tế thiêng liêng và tình đoàn kết vững bền

Hà Nội (TTXVN 26/10/2024) Ngày 30/10/1945, lực lượng Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam chính thức được thành lập, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt Nam-Lào. Với tinh thần quốc tế vô sản và ý thức về mối quan hệ mật thiết giữa hai dân tộc, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam không chỉ đóng góp sức mạnh quân sự mà còn thể hiện sự đồng cam cộng khổ, sẵn sàng hy sinh vì tình hữu nghị đặc biệt Việt-Lào.


Hoàng thân Souphanouvong với các chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam, năm 1950. Ảnh: Tư liệu TTXVN

 * Sự hỗ trợ của Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam - góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Lào

Việt Nam và Lào là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về lịch sử, kinh tế, văn hóa. Nhân dân hai nước đều cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; anh dũng, kiên cường trong chiến đấu chống ngoại xâm; giàu lòng nhân ái, bao dung và rất mực yêu chuộng hòa bình. Chính từ những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy mà hai dân tộc Việt Nam-Lào đã gắn kết với nhau từ rất sớm và theo năm tháng, mối quan hệ giữa hai nước ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành một điển hình mẫu mực hiếm có trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới.

Đặc biệt, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc, Nhân dân hai nước Việt Nam-Lào đã có sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào-Việt (ngày 16/10/1945) và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào-Việt (ngày 30/10/1945). Đó là những văn kiện chính thức đầu tiên tạo cơ sở pháp lý để hai nước Việt Nam, Lào hợp tác và đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung.

Ngày 30/10/1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định: “Các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện”. Đây là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng ta trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Ngày 30/10/1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”, thời kỳ đầu các đoàn quân tình nguyện lần lượt được thành lập sang giúp cách mạng Lào đẩy mạnh kháng chiến, tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 20/01/1949, quân đội Lào Issara đã ra đời, đánh dấu bước trưởng thành mới của cách mạng Lào.

Tháng 4/1950, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng-Tổng Tư lệnh quyết định thống nhất các lực lượng Quân tình nguyện hoạt động trên chiến trường Bắc Lào thành ba phân khu (A, B và C) được biên chế thành các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội. Năm 1951, Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh tiếp tục tăng cường cán bộ và bộ đội tình nguyện sang chiến trường Lào, đưa tổng quân số tăng lên khoảng 12.000 người. Sau thắng lợi của Chiến dịch Biên giới (1950), cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào đẩy mạnh phối hợp chiến đấu, tổ chức nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch lớn tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến, nổi bật là Chiến dịch Thượng Lào năm 1953.

Phát huy kết quả đạt được, trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, lực lượng vũ trang Việt Nam-Lào tiếp tục phối hợp mở các chiến dịch tiến công giành thắng lợi ở Trung Lào (tháng 11/1953), Thượng Lào lần thứ hai (tháng 2/1954) và Hạ Lào (tháng 4/1954), tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam tiến lên tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quân đội và nhân dân Lào tiếp tục thực hiện sự phối hợp, đẩy mạnh hoạt động quân sự ở khắp nơi, góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch và đến ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneve được ký kết, cuộc kháng chiến chống Pháp của Nhân dân hai nước Việt Nam và Lào kết thúc thắng lợi.

Trong những năm 1954-1959, phương thức hợp tác giúp đỡ của Việt Nam đối với cách mạng Lào có sự thay đổi. Ta chủ trương chuyển từ chế độ Quân tình nguyện (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) sang chế độ Cố vấn quân sự (từ năm 1959 gọi là Chuyên gia quân sự).

Từ năm 1960, khi đế quốc Mỹ can thiệp ngày càng trắng trợn vào công việc nội bộ của Lào, thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào đứng trước nhiều thử thách. Trước diễn biến mới của tình hình cách mạng Lào, ngày 2/7/1959, báo cáo của Bộ Chính trị về tình hình mới và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào đã xác định: “Tích cực ủng hộ cách mạng Lào phải được coi là một nhiệm vụ quốc tế hết sức quan trọng của Đảng và Nhân dân ta…, là một công tác có ý nghĩa trọng đại đối với sự nghiệp củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà”. Trên tinh thần đó, ngày 6/7/1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thành lập Ban Công tác Lào, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Trưởng ban. Ngày 12/9/1959, Đoàn chuyên gia quân sự 959 được thành lập và sang hoạt động tại Lào. Đây là những quyết định quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự sáng tạo trong lãnh đạo các lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam giúp Lào kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong quá trình giúp Lào, các đoàn Quân tình nguyện và Chuyên gia quân sự Việt Nam đều bắt đầu từ đề xuất, kiến nghị những vấn đề quan trọng, giúp Bạn xem xét, đề ra chủ trương, chính sách lãnh đạo kháng chiến, xây dựng và chiến đấu của quân đội; bám sát các nghị quyết của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Bộ Quốc phòng Lào tổ chức triển khai xây dựng lực lượng, đề xuất phương án tác chiến, phối hợp chiến đấu hiệu quả, đặc biệt là trong các chiến dịch lớn, như: Nậm Thà (năm 1962), 128, 74A (năm 1964), Nậm Bạc (năm 1968), Mường Xủi (năm 1969), Đường 9-Nam Lào (năm 1971), Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (năm 1972)..., qua đó tạo bước tiến lớn trong công cuộc kháng chiến của cách mạng Lào, đồng thời tác động tích cực trở lại đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.

Sau những thất bại liên tiếp, ngày 27/1/1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris. Một tháng sau, ngày 21/2/1973, đế quốc Mỹ tiếp tục phải ký Hiệp định Viêng Chăn về Lào. Đến đây, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân hai nước Việt Nam và Lào bước sang giai đoạn mới.

Tháng 12/1973, tại cuộc hội đàm giữa các đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, hai bên thống nhất đưa các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở tuyến sau, giúp bảo vệ, giữ vững vùng giải phóng, hỗ trợ cho bộ đội giải phóng Lào chiến đấu ở phía trước. Cùng với đó là việc rút phần lớn chuyên gia quân sự Việt Nam về nước.

Trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973-1975), dù quân số không đông, nhưng đội ngũ chuyên gia quân sự Việt Nam đã tập trung giúp cách mạng Lào những vấn đề cơ bản, then chốt nhất, đặc biệt là giúp cách mạng Lào đấu tranh giành chính quyền bằng “ba đòn chiến lược” và “mũi đấu tranh pháp lý”, tiến lên kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Lào, góp phần quan trọng vào sự ra đời của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày 2/12/1975.

Như vậy, với tinh thần quốc tế vô sản, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam đã có đóng góp to lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cùng quân và dân các bộ tộc Lào giành thắng lợi hoàn toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975). Trên đất nước Lào, không có nơi nào mà không có dấu chân của quân tình nguyên Việt Nam, không có chiến thắng nào mà không có sự hy sinh đóng góp của Quân tình nguyện Việt Nam.

 * Viết tiếp trang sử hào hùng về tình đoàn kết quốc tế trong sáng, keo sơn giữa hai dân tộc Việt-Lào

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Việt Nam và Lào trở thành hai nước độc lập, thống nhất, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Quan hệ hai nước bước sang giai đoạn phát triển mới - giai đoạn hợp tác toàn diện.

Ngày 30/4/1976, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 251-NQ/TW về tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ: “Tăng cường đoàn kết, giúp đỡ và hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân ta trong tình hình hiện nay”.

Trong phát biểu chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Lao động Việt Nam (năm 1976), Tổng Bí thư Lào Kaysone Phomvihane đã khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam. Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam có quyền tự hào vì những đóng góp máu xương vào thắng lợi của quân và dân Lào anh em trong suốt chặng đường dài mấy mươi năm chiến đấu và công tác trên đất nước Triệu Voi anh hùng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trọng đại mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân trao cho” (1).

Đến cuối năm 1976, đầu năm 1977, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đứng trước tình hình an ninh chính trị, chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa. Trước tình thế đó, theo yêu cầu chính thức của Lào, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam một lần nữa trở lại giúp Bạn.

Và xuất phát từ nhu cầu hợp tác sâu rộng và cấp thiết giữa hai nước trong tình hình mới, ngày 18/7/1977, Việt Nam và Lào đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, trong đó nêu rõ: "Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau". Trong suốt 47 năm qua, Hiệp ước này đã trở thành một tài sản quý giá và có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý vững chắc để hai nước không ngừng mở rộng quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện. Hiệp ước cũng là tiền đề để hai nước ký kết hàng loạt các văn kiện và thoả thuận hợp tác trên tất cả các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư, giáo dục đào tạo…

Cùng với đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, hai nước tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật... Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp và thủy lợi sang giúp Lào nghiên cứu, thu thập tài liệu, khảo sát phân tích đất, thiết kế hệ thống thủy lợi, tiến hành xây dựng luận chứng kinh tế-kỹ thuật cho các dự án về nông nghiệp; trực tiếp xuống tận các bản làng để giúp đỡ nông dân Lào canh tác, chuyển giao kỹ thuật, xây dựng hệ thống thủy lợi, phát triển kỹ thuật chăn nuôi theo phương pháp khoa học. Đồng thời, Lào còn đề xuất Việt Nam cử các chuyên gia sang giúp bạn xây dựng chương trình giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, hướng dẫn sinh viên làm đồ án tốt nghiệp... Trong những năm 1996-2000, theo yêu cầu của Lào, Việt Nam đã cử 475 lượt chuyên gia sang giúp bạn, tập trung vào các lĩnh vực kinh tế (63%), quốc phòng-an ninh (28%) và các lĩnh vực khác.

Hai nước nâng quan hệ từ “truyền thống” lên thành “truyền thống vĩ đại” vào tháng 2/2019 nhân chuyến thăm Lào của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Đây là dấu mốc có ý nghĩa lịch sử quan trọng, tạo bước đột phá mới trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Từ đây, quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam-Lào ngày càng trở nên gắn bó keo sơn, đổi mới và phát triển.

hủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với Chủ tịch Quốc hội Lào Saysomphone Phomvihane (17/10/2024). Ảnh: Thống Nhất – TTXVN

Mới đây nhất, trong chuyến thăm chính thức Lào và tham dự Đại hội đồng AIPA 45 (17-19/10/2024), Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã khẳng định: Việt Nam trước sau như một luôn dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ truyền thống đặc biệt “có một không hai” với Lào, luôn sát cánh và ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện công cuộc bảo vệ, xây dựng, đổi mới và phát triển của Lào. Việt Nam luôn trân trọng những tình cảm, sự giúp đỡ và đóng góp quý báu của các thế hệ lãnh đạo, nhân dân Lào anh em, không ngừng vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam-Lào.

Nhìn lại chặng đường 75 năm, Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào đã viết nên một trang sử hào hùng về tình đoàn kết quốc tế trong sáng, keo sơn giữa hai dân tộc Việt-Lào. Sự hy sinh, cống hiến to lớn của Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào không chỉ góp phần vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn đặt nền tảng vững chắc cho mối quan hệ vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước ngày nay. Tinh thần đoàn kết, kề vai sát cánh ấy sẽ mãi là biểu tượng cao đẹp của tình hữu nghị giữa hai dân tộc, góp phần xây dựng tương lai hòa bình và phát triển bền vững cho cả hai quốc gia./.

Minh Duyên

(1) Bộ Quốc phòng: Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Ban liên lạc Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào: Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào - Biểu tượng của tình đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu Việt - Lào, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr. 29.