An Thuyên
- Họ và tên: An Thuyên
- Bút danh/ Bút hiệu/ Nghệ danh:An Thuyên
- Ngày sinh: 15/8/1949
- Ngày mất: 3/7/2015
- Quê quán: huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
- Khen thưởng/Giải thưởng:
- Huân chương Lao động hạng Ba (2001)
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007)
- Giải thưởng cuộc thi ca khúc toàn quốc: Giải Nhất với bài Tiếng đàn balalaica trên sông Đà (phỏng thơ Quang Huy) (1985)
- Giải thưởng chính thức của Bộ Quốc phòng: Bài Hành quân lên Tây Bắc (1984), Thơ tình của núi (1994)
- Giải thưởng của Bộ Văn hóa - Thông tin và Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Giải nhất với bài Khi xe tăng qua miền Quan họ (1985), Mẹ Việt Nam anh hùng (1995)
- Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam: Giải Nhì với bài Chín bậc tình yêu (1992), hợp xướng Chào Việt Nam thênh thang mùa xuân (2004); giải Nhất: với Bài ca người tình báo (2000), bài Đi tìm bóng núi (2004)
- Cuộc đời và sự nghiệp:
- Từ năm 1967: Công tác ở Ty Văn hoá Nghệ An.
- Năm 1971: Sáng tác bài Em chọn lối này, khi 21 tuổi. Từ đó trở đi, các ca khúc đều đặn ra đời. Phần lớn sáng tác nổi tiếng của nhạc sĩ mang đậm âm hưởng dân ca xứ Nghệ. Ông trở thành một trong những nghệ sĩ thành công khi khai thác, vận dụng vốn âm nhạc dân gian.
- Năm 1975: Nhạc sĩ An Thuyên vào bộ đội.
- Năm 1977: Chuyển về công tác tại Đoàn Văn công Quân khu 4.
- Từ năm 1981-1988: Được cử đi học ở Nhạc viện Hà Nội, môn Sáng tác âm nhạc bậc Đại học.
- Năm 1988: Sau khi tốt nghiệp, ông về Phòng Văn nghệ quân đội.
- Từ năm 1992-2009 (đến khỉ nghỉ hưu): Công tác ở Trường Cao đẳng Nghệ thuật Quân đội (nay là Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội).
- Từ năm 1993: Giữ cương vị Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội.
- Năm 2007: được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật với chùm tác phẩm: Em chọn lối này, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác, Hành quân lên Tây Bắc.
- Năm 2008: Được Phong quân hàm Thiếu tướng.
- Tác phẩm chính:
- Các ca khúc có sức lan tỏa rộng: Em chọn lối này, Đêm nghe hát đò đưa nhớ Bác, Hành quân lên Tây Bắc, Khi xe tăng qua miền Quan họ, Thơ tình của núi, Chín bậc tình yêu, Huế thương, Neo đậu bến quê, Ca dao em và tôi, Mẹ Việt Nam anh hùng…
- Sáng tác một số kịch hát: được dàn dựng ở nhiều Đoàn Văn công như Trương Chi, Đôi đũa kim giao, Biển tình cay đắng, Đất nước đứng lên (dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Nguyên Ngọc)...
- Sáng tác cho khí nhạc: Concerto cho flyte và dàn nhạc giao hưởng…
- Viết nhạc cho phim, nhạc cho múa và viết phần âm nhạc cho khoảng 60 vở kịch nói, tuồng chèo…