Chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược về quân sự và chính trị
Hà Nội (TTXVN 07/12/2021) Cuối năm 1951 đầu năm 1952, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Tổng Quân ủy, quân và dân ta đã giành thắng lợi lớn trong Chiến dịch Hòa Bình. Đây là chiến thắng mang ý nghĩa chiến lược về quân sự và chính trị, trong đó nét nổi bật là nghệ thuật tác chiến chiến dịch tiến công. 70 năm đã trôi qua, nhưng thắng lợi và những bài học kinh nghiệm từ Chiến dịch Hòa Bình vẫn còn nguyên giá trị, được vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Bị quân dân ta đánh một đòn đau ở Chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950, tiếp đó lại bị du kích ta đánh mạnh ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ đã khiến thực dân Pháp lâm vào thế phòng ngự bị động. Trước tình hình đó, cuối tháng 10/1951, thực dân Pháp đưa tướng De Lattre trở lại Hà Nội nắm quyền. De Lattre tuyên bố: “Đã tới lúc giành lại chủ động trên chiến trường, buộc Việt Minh phải tiếp nhận chiến đấu trên một địa điểm do Pháp lựa chọn”.
De Lattre đã chọn phương án đánh chiếm Hòa Bình, địa bàn chỉ cách Hà Nội 76 km, nằm trong tầm hoạt động của máy bay ném bom Pháp, là nút giao thông thủy - bộ nối liền Việt Bắc với đồng bằng và miền Trung.
Thực hiện ý đồ trên, ngày 10/11/1951, thực dân Pháp mở cuộc hành binh "Hoa Tulip" đánh chiếm Chợ Bến. Ngày 14/11/1951, quân Pháp tiếp tục mở cuộc hành binh "Hoa Sen" đánh chiếm thị xã Hòa Bình (nay là thành phố Hòa Bình) và Tu Vũ (huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ).
Trước kế hoạch này, ngày 15/11/1951, Đại tướng Võ Nguyên Giáp triệu tập Hội nghị Quân ủy Trung ương. Hội nghị nhận định việc Pháp chiếm thị xã Hòa Bình là một cơ hội hiếm có cho ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đánh ra Hoà Bình, địch phải phân tán lực lượng cơ động, lực lượng tinh nhuệ trên một mặt trận rộng lớn, núi rừng hiểm trở, địa hình đột xuất, công sự chưa vững chắc. Mặt khác vì phải tập trung phần lớn quân cơ động ra Hoà Bình nên lực lượng địch ở đồng bằng bị dàn mỏng, các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn Liên khu 3 đến Trung Du đều tương đối sơ hở hơn trước. Quân ủy Trung ương đề nghị Trung ương cho “mở chiến dịch Hòa Bình, chuyển hướng hoạt động thụ động sang tiến công địch ở nơi chúng mới chiếm đóng. Mục đích của chiến dịch là tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Ngày 23/11/1951, Bộ Chính trị đồng ý với đề xuất của Tổng Quân ủy mở chiến dịch Hòa Bình, nhấn mạnh: cần hết sức tranh thủ thời gian, góp phần đưa thắng lợi nhỏ thành thắng lợi lớn.
Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 24/11/1951, Tổng Quân ủy quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình, sử dụng 3 đại đoàn: 308, 312, 304 vây hãm và tiêu diệt quân cơ giới của địch ở mặt trận Hòa Bình; 2 đại đoàn: 320, 316 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch.
Chiến dịch Hòa Bình diễn ra thành ba đợt. Đợt 1 (từ ngày 10 đến 26/12/1951), ta cắt đứt tuyến sông Đà, tiến công tiêu diệt các cứ điểm Tu Vũ, Núi Chẹ. Trung đoàn 88 tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Tu Vũ – một cứ điểm lớn được bảo vệ nghiêm ngặt. Địch chi viện 5.000 trái pháo yểm trợ nhưng không ngăn nổi ý chí quyết đánh của bộ đội ta. Trung đoàn 88 về sau được gọi tên truyền thống là Trung đoàn Tu Vũ.
Đợt 2 (từ 27 đến 31-12-1951), ta tiếp tục đập vỡ phòng tuyến sông Đà, tiêu diệt các điểm cao 400, 600, Đá Chông, Chẹ, chặn đánh các cánh quân viện trên các trục đường 87, Ba Vì, Mỹ Khê. Quân Pháp nhận thấy không đủ lực lượng bảo vệ phòng tuyến sông Đà nên rút lui toàn bộ, chỉ để lại cụm cứ điểm Đan Thê-La Phù gần Trung Hà (Sơn Tây). Địch dự định sẽ tăng cường phòng ngự tuyến đường số 6 và thị xã Hòa Bình. Tuy nhiên, ý định đó chưa thành thì quân ta đã nổ súng tiến công thị xã Hòa Bình.
Đợt 3 (từ 7/1 đến 25/2/1952): Ta tiếp tục sử dụng chiến thuật "công đồn đả viện" và thường xuyên uy hiếp các đường tiếp tế thuỷ, bộ để cầm chân số lớn lính Pháp (riêng tại đường số 6, Pháp phải dùng tới 16 tiểu đoàn để bảo vệ). Trên hướng phối hợp, ta tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, liên tục tiến công địch, góp phần vào thắng lợi của mặt trận chính. Quân Pháp phải rải quân ra nhiều nơi, cạn hết quân dự trữ. Bộ chỉ huy Pháp lúng túng đối phó trong khi chiến phí ngày càng quá sức chịu đựng, khiến nội tình nước Pháp ngày càng rối bời. Tổng Quân ủy nhận định: "Theo thế chung thì muốn hay không muốn, địch cũng phải rút khỏi Hoà Bình". Đúng như vậy, chiều 22/12/1952, 5 tiểu đoàn địch lặng lẽ rút chạy khỏi thị xã Hòa Bình. Thực dân Pháp dùng ba vạn viên đạn pháo để yểm trợ cho cuộc rút lui với hy vọng giảm thiểu thiệt hại. Trên đường rút chạy, địch bị chủ lực ta đón đánh gây thiệt hại một phần; bộ đội địa phương, du kích tiếp tục truy kích, chặn đánh gây cho chúng những tổn thật nặng nề.
Trải qua hơn hai tháng hoạt động tác chiến, Chiến dịch Hòa Bình đã giải phóng khoảng 2.000 km2, tiêu diệt hơn 5.000 tên và bắt sống gần 700 tên; thu giữ nhiều vũ khí, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Đặc biệt là đánh bại âm mưu chiếm đóng vùng tự do, phá tan ý đồ giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ; nối thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu 3 và Liên khu 4, tạo điều kiện cho những thắng lợi quan trọng về sau.
* Bước phát triển về nghệ thuật tác chiến
Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình là thành công của Đảng ta trong việc chỉ đạo tiến công chiến dịch và đưa quân đội ta có bước tiến mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày trên hai mặt trận rộng lớn và phức tạp.
Khi nghiên cứu về chiến tranh của quân Pháp ở Đông Dương, nhà báo-nhà sử học Bernard Fall đã cho rằng: “chiến dịch Hòa Bình đối với quân Pháp cũng tổn thất về sinh mạng và trang bị nhiều không kém gì Chiến dịch Biên Giới và chiến dịch Điện Biên Phủ sau này”.
Ngày 25/2/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi Bộ chỉ huy chiến dịch và các chiến sỹ mặt trận Hoà Bình, dân công phục vụ và đồng bào địa phương. Bức thư có đoạn: "So với những thắng lợi trước, thắng lợi lần này là khá to. Thắng lợi lần này đã đánh dấu một bước tiến bộ mới của bộ đội ta, và đã làm cho địch phải thất bại nhục nhã trong âm mưu củng cố phòng ngự chuyển lên tiến công, nhưng bộ đội phải luôn luôn cố gắng thi đua giết giặc lập công và ra sức học tập chỉnh huấn, đồng bào phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất hơn nữa để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa".
Ngày 12/4/1952, Hội nghị tổng kết Chiến dịch Hoà Bình được tiến hành. Hội nghị khẳng định: Về vận dụng chiến thuật, ta đã thực hiện đúng nguyên tắc tập trung ưu thế về binh lực, thực hiện bao vây, chia cắt tiêu diệt địch. Tập trung binh lực ở một điểm để đánh ngã địch, đồng thời bố trí lực lượng hai đến ba mặt để bao vây tiêu diệt địch. Đánh gần để hạn chế chỗ mạnh của địch về hoả lực pháo binh và máy bay và lợi dụng chỗ yếu của địch về tinh thần, Do đó, trong đánh công kiên phải chiếm lĩnh trận địa và đột phá tiền duyên bí mật nhanh chóng để có thời gian và đủ lực lượng đánh tung thâm.
Chiến thắng Hòa Bình thể hiện sự chỉ đạo đúng đắn, tài tình về nghệ thuật quân sự của Đảng, về sức mạnh của chiến tranh nhân dân: Chọn chiến trường thích hợp để tiêu diệt địch, đánh vào chỗ sơ hở, nơi hiểm yếu của địch, kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các địa bàn, các chiến trường, giữa ba thứ quân, giữa quân và dân… đồng loạt tiến công liên tục chiến đấu trong chiến dịch dài ngày trên một chiến trường rộng lớn đã chứng tỏ khả năng phối hợp nhịp nhàng, lối đánh muôn màu, muôn vẻ của chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã làm thất bại đòn tiến công chiến lược của địch.
Về tổng thể, Chiến dịch Hòa Bình là loại hình chiến dịch tiến công. Đây cũng là loại hình tác chiến chiến dịch cơ bản của Quân đội ta trong chiến tranh giải phóng đất nước trước đây cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Vì thế, Chiến dịch Hòa Bình cần được tiếp tục nghiên cứu sâu để vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong điều kiện mới./.
Diệp Ninh (tổng hợp)