Hà Nội (TTXVN 10/12/2024) “Quân đội ta là quân đội Nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của Nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc cho Nhân dân. Ngoài lợi ích của Nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác” (1). Lời dạy này của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là kim chỉ nam cho Quân đội Nhân dân Việt Nam mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng, tầm nhìn và sự quan tâm của Người đối với quân đội cách mạng - một quân đội “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Tầm nhìn chiến lược - khởi nguồn cho một quân đội cách mạng

Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được rằng, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng, cần phải tổ chức lực lượng vũ trang. Mục đích xây dựng quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tự vệ dân tộc: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”. (2)

Với tầm nhìn chiến lược, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phải “tổ chức ra quân đội công nông”. Người từng khẳng định: “Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự”. (3)

Không dừng lại ở ý tưởng, Người đã xây dựng chiến lược cụ thể, từng bước chuẩn bị cho sự ra đời của một quân đội cách mạng. Ngay từ những năm 1925-1927, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã mở các lớp đào tạo, gieo mầm “hạt giống đỏ” cho cách mạng Việt Nam.

Ngày 28/1/1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Đến tháng 10/1941, tại Pác Bó (Cao Bằng), Người giao nhiệm vụ mở lớp huấn luyện quân sự đầu tiên, đào tạo những cán bộ nòng cốt. Tại đây, Người đã trực tiếp tham gia huấn luyện và biên soạn các tài liệu giảng dạy quân sự quan trọng như: “Mười điều kỷ luật”; “Cách đánh du kích”; “Những hiểu biết cơ bản về quân sự”…

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra đội quân chủ lực đầu tiên của các lực lượng vũ trang - Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, ngày 22/12/1944. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Ngày 22/12/1944, thực hiện Chỉ thị của Người, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - đội quân chủ lực đầu tiên, tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân - chính thức được thành lập. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân có 34 đội viên được biên chế thành một trung đội có 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên.

Trong bài diễn văn tại buổi thành lập, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã khẳng định quyết tâm của toàn thể các đội viên: “Bao nhiêu căm hờn của dân tộc, bao nhiêu sự tàn khốc thê thảm đang chờ đợi một cuộc thanh toán. Chúng ta nguyện đem xương máu ra làm công việc đó. Chúng ta sẽ vạch cho toàn dân con đường sống duy nhất là con đường đoàn kết để vũ trang đứng dậy. Quân giải phóng sẽ tỏ ra mình là một đội quân của dân, của nước, đi tiên phong trên con đường giải phóng của dân tộc”. (4)

Sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là một tất yếu lịch sử trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của Nhân dân ta; là bước ngoặt trên con đường đấu tranh cách mạng của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng lúc đó. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước có một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; một quân đội cách mạng từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Chăm lo xây dựng quân đội mạnh về mọi mặt

Sau khi chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng chăm lo xây dựng quân đội mạnh về mọi mặt. 

- Ảnh trái: Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng lá cờ thêu dòng chữ "Trung với nước, hiếu với dân" cho các học viên khóa I của Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn (22/4/1946).
- Ảnh phải: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị “quyết tử” của Hà Nội đầu năm 1947.

(Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)

Về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao vai trò của tổ chức Đảng trong quân đội. Người coi chi bộ Đảng là hạt nhân lãnh đạo, là cốt lõi để duy trì và củng cố tư tưởng cách mạng trong quân đội. Các chi bộ Đảng luôn phải bám sát tình hình thực tế, lãnh đạo quân đội không chỉ trong chiến đấu mà còn trong công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị. Đảng phải là nguồn động lực, tạo ra sức mạnh tinh thần vững chắc cho mỗi chiến sĩ, giúp họ kiên định với mục tiêu lý tưởng và khẳng định vai trò tiên phong của quân đội trong các nhiệm vụ cách mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Trong Chỉ thị của Người về việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Người nêu rõ: “Sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực...; trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện”(5). Đây là một sáng tạo độc đáo phù hợp với điều kiện và nhu cầu thực tế của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc tại Việt Nam. Mô hình này không chỉ phản ánh khả năng chiến đấu linh hoạt của quân đội ta, mà còn phát huy sức mạnh của toàn dân trong cuộc kháng chiến. Quân đội không chỉ chiến đấu trên các mặt trận chính quy mà còn kết hợp với lực lượng du kích, tạo ra chiến tranh nhân dân, nơi mọi người dân đều trở thành một phần của lực lượng vũ trang.

Về nghệ thuật quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải huy động “tập trung lực lượng” coi đây là nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật chiến tranh. Nguyên tắc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh; về chiến thuật phải “vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung”. (6)

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị và tư tưởng. Người khẳng định: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” (7). Một đội quân mạnh phải là đội quân có lý tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Quân đội không chỉ mạnh về vũ khí, trang bị mà phải mạnh từ trong tư tưởng, từ ý chí quyết tâm chiến đấu vì lý tưởng cách mạng và bảo vệ Tổ quốc. Chính trị là nền tảng giúp quân đội định hướng mục tiêu, giữ vững lý tưởng, và phát huy sức mạnh tổng hợp. Trong mọi hoàn cảnh, dù trang bị có thiếu thốn, quân đội vẫn có thể chiến đấu kiên cường nếu phẩm chất chính trị và ý chí cách mạng của từng người lính được hun đúc đúng đắn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt ra nguyên tắc "người trước, súng sau" để nhấn mạnh vai trò của con người trong việc quyết định mọi chiến thắng. Người cho rằng, dù vũ khí có hiện đại đến đâu, nếu không có con người đủ dũng cảm, kiên định, có lý tưởng và phẩm chất đạo đức vững vàng thì không thể đạt được mục tiêu. Chính con người với lòng yêu nước, quyết tâm và sự đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh vô biên cho quân đội. Do đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục và rèn luyện cán bộ, chiến sĩ, không chỉ về kỹ thuật quân sự mà còn về đạo đức cách mạng.

Ngày 19/9/1954, tại sân Đền Giếng trong Khu di tích Đền Hùng (Phú Thọ), trước khi về tiếp quản Thủ đô, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn Quân tiên phong - Sư đoàn 308 được nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện thân mật. Người căn dặn: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Ảnh: Đinh Đăng Định - TTXVN phát

Một yếu tố quan trọng khác mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở trong suốt quá trình xây dựng quân đội chính là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa quân đội và Nhân dân. Người dạy: “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội. Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ đội. Phải làm sao cho bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu” (8). Đây không chỉ là lời dạy về đạo đức cách mạng mà còn là nguyên lý chiến lược trong việc phát huy sức mạnh của quân đội. Quân đội phải là một bộ phận không thể tách rời của Nhân dân, là đội quân của dân, vì dân mà chiến đấu. Sự gắn bó này không chỉ thể hiện qua hành động trong chiến đấu mà còn thể hiện trong mỗi bước đi của quân đội trong công tác dân vận, tuyên truyền và bảo vệ lợi ích của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng hình mẫu một quân đội không chỉ là "đội quân chiến đấu" mà còn là "đội quân công tác" - luôn sát cánh, chăm lo cho đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

Dành tình yêu, sự quan tâm đặc biệt cho các chiến sĩ

Nhân dịp Tết Nguyên đán Bính Ngọ (1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ đơn vị pháo cao xạ Quân khu III có thành tích bắn rơi máy bay Mỹ. Ảnh: TTXVN

Là người sáng lập và rèn luyện nên Quân đội Nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm sâu sắc, sự quan tâm đặc biệt đến các chiến sĩ, coi họ như con em ruột thịt của mình. Hơn ai hết, Người thấu hiểu những gian nan, vất vả, hy sinh của bộ đội ta trong cuộc chiến giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho Nhân dân. Tình yêu thương của Bác đối với bộ đội không chỉ thể hiện qua những lời nói mà còn trong từng hành động, từ những lá thư động viên gửi đến các chiến sĩ cho đến những việc làm thiết thực nhất.

Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, dù bận rộn với công việc lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn dành thời gian viết thư cho các đơn vị bộ đội, động viên họ vượt qua khó khăn. Một trong số đó là “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ”: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới” (9). Những lời này không chỉ là sự động viên to lớn đối với các chiến sĩ, mà còn thể hiện niềm tin của Bác vào khả năng chiến thắng của quân đội ta.

Nhân dịp Tết nguyên đán Đinh Mùi (9/2/1967), Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn không quân 921-Đoàn Không quân Sao Đỏ. Ảnh: TTXVN

Ngoài những lời động viên, tình yêu thương của Bác đối với các chiến sĩ còn được thể hiện qua những hành động giản dị nhưng vô cùng ý nghĩa. Một trong những câu chuyện cảm động đó là: Mùa hè năm 1967 rất nóng, Bác nói với đồng chí thư ký lên xem bộ đội phòng không trực chiến trên nóc Hội trường Ba Đình có đủ nước uống không. Được biết các chiến sĩ không có nước uống, Bác đã bảo đồng chí thư ký lấy sổ tiết kiệm của Bác tặng cho Bộ Tư lệnh Phòng không để mua nước cho anh em chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của các chiến sĩ. Người dặn dò: “Từ tiểu đội trưởng trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống thế nào, phải hiểu nguyện vọng và thắc mắc của đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt” (10). Những lời dạy này không chỉ là mệnh lệnh mà còn là sự chia sẻ chân thành của Bác, khích lệ các chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, cùng đồng lòng vì Tổ quốc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đội chiếc mũ Hải quân nhân dân Việt Nam khi đến thăm một đơn vị hải quân đang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển Tổ quốc, ngày 22/1/1962. Ảnh: TTXVN

Tình cảm của Bác đối với bộ đội đã hun đúc nên hình mẫu "Bộ đội Cụ Hồ" - một biểu tượng đẹp về người lính cách mạng, luôn tận tâm vì dân, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, đồng thời giữ vững phẩm hạnh và đạo đức cách mạng.

"Ánh sáng" soi đường cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Anh hùng, Chiến sĩ thi đua các Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam ra thăm miền Bắc, ngày 15/11/1965. Ảnh: TTXVN

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự ủng hộ và đồng lòng của toàn thể Nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã vượt qua vô vàn thử thách, lập nên những chiến công vang dội trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc. Từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đánh bại thực dân Pháp xâm lược, cho đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước -  tất cả đều phản ánh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một quân đội anh hùng, trung với Đảng, hiếu với dân.

Ngày nay, phát huy truyền thống anh hùng, Quân đội nhân dân Việt Nam Việt Nam không ngừng hiện đại hóa, xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Từ việc bảo vệ Tổ quốc đến tham gia giúp dân xóa đói giảm nghèo, cứu trợ, cứu nạn trong các tình huống khẩn cấp… Quân đội luôn là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong nước, Quân đội nhân dân Việt Nam còn tích cực tham gia các nhiệm vụ quốc tế, đặc biệt trong hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Trải qua 80 năm kể từ khi Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội cách mạng vẫn mãi là "ánh sáng soi đường" cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội tiếp tục phấn đấu, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, xứng đáng với danh hiệu là đội quân anh hùng của dân tộc anh hùng, góp phần quan trọng bảo vệ nền hòa bình, thịnh vượng, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển và hội nhập./.

Minh Duyên

(1), (7), (10): Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr. 334, 217, 76
(2): Hồ Chí Minh Toàn tập, sđd, tập 9, tr. 226.
(3), (8): Hồ Chí Minh Toàn tập, sđd, tập 5, tr. 370, 485
(4): Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977
(5), (6): Hồ Chí Minh Toàn tập, sđd, tập 3, tr. 539
(9): Hồ Chí Minh Toàn tập, sđd, tập 8, tr.433