Gạo Việt - trụ cột kinh tế, động lực phát triển bền vững

Hà Nội (TTXVN 30/1/2025) Lúa gạo không chỉ là trụ cột của nền kinh tế nông nghiệp mà còn là niềm tự hào của xuất khẩu Việt Nam. Năm 2024, ngành gạo Việt Nam tạo dấu ấn đặc biệt với sản lượng xuất khẩu vượt 8 triệu tấn, doanh thu trên 4,5 tỷ USD, giữ vững vị thế là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đây là minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng, đồng thời mở ra kỳ vọng cho một năm mới tiếp tục gặt hái thành công.

Nông nghiệp ứng dụng công nghệ giúp thay đổi bức tranh nông nghiệp, đưa nền nông nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Trong ảnh: Thu hoạch diện tích thí điểm thực hiện Đề án sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại xã Láng Biển, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: Nhựt An - TTXVN

* Nền tảng văn hóa của người Việt

Nền văn minh lúa nước của Việt Nam đã hình thành rất lâu đời. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, hình ảnh người nông dân, cây lúa, hạt gạo đã trở thành truyền thống của dân tộc ta. Từ thời kỳ dựng nước, người Việt đã biết khai thác các vùng châu thổ màu mỡ như sông Hồng, sông Mã và sông Cửu Long để phát triển nông nghiệp lúa nước. Đây là nguồn lương thực chính, nuôi dưỡng cộng đồng và cũng là nền tảng văn hóa của người Việt.

Trong suốt thời kỳ phong kiến, các triều đại đều chú trọng phát triển nền nông nghiệp lúa nước. Chính sách khuyến khích nông nghiệp như "Ngụ binh ư nông" và việc xây dựng hệ thống kênh mương thủy lợi là minh chứng rõ nét. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo trong giai đoạn này chủ yếu mang tính tự cung tự cấp.

Khi bị thực dân Pháp đô hộ, Việt Nam, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được định hình là vùng sản xuất lúa gạo. Tuy nhiên, phần lớn lợi ích rơi vào tay thực dân, trong khi người dân phải chịu cảnh bóc lột nặng nề. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, sản xuất lúa gạo vừa phục vụ nhu cầu trong nước vừa đảm bảo lương thực cho quân đội và Nhân dân vùng giải phóng. Dù chiến tranh khốc liệt, Việt Nam vẫn duy trì được nền sản xuất nông nghiệp cơ bản.

Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn về an ninh lương thực. Tuy nhiên, từ năm 1986, với chính sách đổi mới, ngành gạo Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới. Nhờ những cải cách táo bạo, đặc biệt là chính sách khoán 10 năm 1988, ngành lúa gạo đã có bước chuyển mình ngoạn mục, giúp Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo chỉ sau vài năm. Theo đó, năm 1989 Việt Nam lần đầu xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, đạt 322 triệu USD. Đây là khởi đầu cho sự trỗi dậy mạnh mẽ của ngành gạo trong hơn ba thập kỷ.

Từ những hạt lúa đầu tiên trên Đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long, ngành gạo Việt Nam đã trải qua hành trình dài đầy thử thách, biến đổi từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp thành một ngành hàng xuất khẩu chiến lược.

* 1 trong 3 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới

ĐBSCL là vùng sản xuất lúa lớn nhất nước, chiếm hơn 50% tổng sản lượng và hơn 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước. Để phát triển ngành lúa gạo, trong nhiều năm qua, ĐBSCL đã đẩy mạnh đầu tư về thủy lợi, giống lúa và công nghệ canh tác.

Gần 40 năm đổi mới, Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc…Trong ảnh: Lễ công bố xuất khẩu lô gạo 1.500 tấn đầu năm 2021 của Công ty Cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đi Singapore và Malaysia. Ảnh: Thanh Liêm - TTXVN

Các dự án xây dựng hệ thống cống ngăn mặn, đê bao bảo vệ và kênh dẫn nước đã góp phần kiểm soát lũ, giảm thiểu thiệt hại từ biến đổi khí hậu và đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho hàng triệu hecta lúa. Tiêu biểu là hệ thống cống ngăn mặn Cái Lớn - Cái Bé, đóng vai trò bảo vệ các vùng canh tác khỏi tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng, đặc biệt trong mùa khô.

Song song với đó, công tác nghiên cứu và lai tạo giống lúa đã mang lại những bước đột phá đáng kể. Theo ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, hiện nay đa số giống lúa của Việt Nam là các giống lúa chất lượng cao. Các giống lúa như Jasmine, ST24, ST25 không chỉ đạt năng suất cao mà còn đáp ứng tiêu chuẩn gạo ngon nhất thế giới, đưa thương hiệu gạo Việt Nam vươn xa.

Cùng với giống lúa chất lượng, việc áp dụng các công nghệ canh tác tiên tiến như mô hình "3 giảm, 3 tăng" (3 giảm: giảm lượng hạt giống, giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm phân bón; 3 tăng: tăng năng suất lúa, tăng chất lượng gạo, tăng hiệu quả kinh tế) và “1 phải, 5 giảm” (1 phải: phải sử dụng giống lúa xác nhận hoặc nguyên chủng mà ngành nông nghiệp địa phương khuyến cáo đưa vào sản xuất; 5 giảm: giảm lượng hạt giống gieo trồng, giảm lượng phân bón, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, giảm lượng nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch), đã giúp nông dân cải thiện hiệu quả sản xuất, giảm chi phí và nâng cao giá trị hạt gạo.

Với những nỗ lực trên, Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới trong nhiều năm.

Theo đó, năm 1999, Việt Nam lần đầu đạt kim ngạch xuất khẩu gạo trên 1 tỷ USD với sản lượng 4,6 triệu tấn. Việt Nam chính thức trở thành một trong các cường quốc về xuất khẩu gạo trên thế giới. Năm 2009, sản lượng gạo xuất khẩu lần đầu vượt mốc 6 triệu tấn, mang về gần 2,5 tỷ USD. Năm 2011, xuất khẩu gạo vượt mốc 7 triệu tấn, (đạt 7,1 triệu tấn, giá trị 3,65 tỷ USD), mở đầu giai đoạn nâng cao chất lượng hạt gạo và xây dựng thương hiệu gạo Việt. Và năm 2023, xuất khẩu gạo đã vượt mốc 8 triêu tấn (đạt 8,1 triệu tấn, giá trị 4,67 tỷ USD).

Đáng chú ý, năm 2024, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt kỷ lục với sản lượng 9 triệu tấn, đạt giá trị 5,8 tỷ USD, tăng 10,6% về lượng và tăng 23% về giá trị so với năm 2023. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 cũng tăng 16,7%. Trong năm, có nhiều thời điểm giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vượt qua gạo cùng loại của Thái Lan để đứng ở vị trí cao nhất trong những nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Đây là bước bứt phá vô cùng ấn tượng sau 35 năm kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo.

Về thị trường, gạo Việt Nam đã có mặt ở khoảng 150 quốc gia, vùng lãnh thổ. Theo đó, các thị trường nhập khẩu lớn nhất là Philippines, Indonesia, Malaysia, Bờ Biển Ngà, Ghana... Philippines tiếp tục là đối tác hàng đầu, nhập khẩu hơn 4,2 triệu tấn gạo, trị giá 2,6 tỷ USD, chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam. Ngoài Philippines, năm 2024 chứng kiến nhiều đợt “gom hàng” lúa gạo từ thị trường Indonesia khi Cơ quan hậu cần quốc gia này liên tục tăng sản lượng mời thầu, trung bình mỗi tháng mua vào từ 300.000-350.000 tấn…

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và khủng hoảng lương thực toàn cầu, Việt Nam là một trong những quốc gia đảm bảo nguồn cung gạo ổn định, góp phần quan trọng vào an ninh lương thực thế giới. Đặc điệt, các giống gạo thơm như ST24, ST25 đã đạt danh hiệu “Gạo ngon nhất thế giới”.

* Phát triển bền vững ngành gạo Việt Nam

Dù đạt nhiều thành tựu, ngành gạo Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức như: biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia cảnh báo, áp lực giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp toàn cầu cũng đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cho ngành gạo trong việc cải thiện phương thức canh tác để giảm thiểu tác động đến môi trường.

"Gạo Việt Nam được vinh danh là gạo ngon nhất thế giới thêm một lần nữa khẳng định chất lượng cũng như uy tín của gạo Việt trên thị trường quốc tế". Ảnh: Duy Khương - TTXVN

Nhằm hướng đến phát triển bền vững, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách và kế hoạch quan trọng. Nổi bật nhất là đề án “Phát triển bền vững một triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023) với mục tiêu không chỉ nâng cao giá trị hạt gạo mà còn giảm phát thải và bảo vệ môi trường. Đề án này được kỳ vọng sẽ tạo ra một vùng nguyên liệu lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu vào các thị trường cao cấp.

Ngoài ra, Chiến lược phát triển trồng trọt đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 30/12/2023) cũng đề ra mục tiêu đến năm 2030 là giữ ổn định diện tích 3,56 triệu ha đất trồng lúa. Trong đó đất chuyên trồng lúa nước 3 triệu ha, sản lượng trên 35 triệu tấn thóc, làm nòng cốt bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, chế biến, dự trữ và xuất khẩu. Lúa đặc sản, chất lượng cao chiếm 85-90%, lúa sử dụng cho chế biến chiếm 10-15%.

Để phát triển bền vững ngành gạo Việt Nam, TS. Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho rằng cần thúc đẩy hợp tác giữa nông dân, doanh nghiệp và nhà nước để đảm bảo đầu ra ổn định, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số trong quản lý canh tác và thị trường.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục cải thiện hệ thống thủy lợi, đẩy mạnh nghiên cứu các giống lúa chịu mặn, chống sâu bệnh và giảm phát thải khí nhà kính. Việc xây dựng các tiêu chuẩn gạo bền vững, áp dụng các chứng nhận quốc tế như GlobalGAP, cũng là bước đi quan trọng để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Không chỉ là nguồn sống của hàng triệu nông dân, lúa gạo còn là biểu tượng cho sức mạnh kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Phát triển bền vững ngành gạo không những mang lại lợi ích kinh tế mà còn giúp Việt Nam khẳng định trách nhiệm với môi trường và cộng đồng quốc tế. Đây là con đường tất yếu để hạt gạo Việt Nam tiếp tục tỏa sáng, vững vàng trên bản đồ nông nghiệp thế giới. Với sự đầu tư bài bản và chiến lược phát triển bền vững, tin rằng gạo Việt Nam sẽ tiếp tục vươn xa hơn nữa, tiến đến vị trí đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo./.

Minh Duyên