Giáo sư, Bác sĩ

Hồ Đắc Di

  • Họ và tên: Hồ Đắc Di
  • Ngày sinh: 8/4/1900
  • Ngày mất: 25/6/1984
  • Quê quán: xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
  • Dân tộc: Kinh
  • Chức vụ:

    - Giám đốc Trường Đại học Y Khoa Hà Nội (1945-1976)

    - Chủ tịch Hội Y học Việt Nam rồi Tổng hội Y học Việt Nam (1958-1985)

    - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Khóa II, III, IV

    - Đại biểu Quốc hội: Khóa II, III, IV, V

  • Khen thưởng/Giải thưởng:

    - Huân chương Độc lập hạng Nhất

    - Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba

    - Huân chương Lao Động hạng Nhất và hạng Hai

    - Chiến sĩ thi đua toàn quốc (1952 và 1956)

    - Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa hoc, công nghệ (1996)

  • Cuộc đời sự nghiệp:

    - 1918: Được gia đình cho đi du học ở Pháp, học trung học ở Bordeaux.

    - 1920: Ông thi đậu vào Khoa Y, trường Đại học Tổng hợp Paris.

    - Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa nội trú, ông được nhận vào bệnh viện Tenon, làm trợ lý cho giáo sư Gernez 4 năm. Tại đây, ông đã học phẫu thuật dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Gernez và Giáo sư Monlonguet. Trong thời gian này, ông đã sáng lập ra phương pháp mổ dạ dày (nối thông dạ dày - tá tràng) để điều trị chứng bệnh hẹp môn vị do loét dạ dày - tá tràng gây ra, thay thế phương pháp cắt bỏ dạ dày vẫn dùng trước đó.

    - 1931: khi về nước, được điều về làm bác sĩ thực tập tại bệnh viện Huế, rồi bị điều chuyển về Quy Nhơn.

    - 1932: Ông được bác sĩ Leroy des Barres, Hiệu trưởng Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội mời về giảng dạy phụ sản tại Trường. Từ đó, ông vừa giảng dạy bên Trường Y Dược, vừa làm bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Phủ Doãn (đây là một bệnh viện của trường).

    - Lúc bấy giờ, trên toàn Đông Dương, chỉ có hai bác sĩ phẫu thuật được phép hành nghề là bác sĩ Leroy des Barres và bác sĩ Cartoux. Cả hai đều là người Pháp. Được sự hỗ trợ của bác sĩ Leroy des Barres, Hồ Đắc Di đã đấu tranh để đòi quyền được hành nghề phẫu thuật. Ông là người thứ ba và là người Việt đầu tiên được chính quyền thực dân Pháp cho làm bác sĩ phẫu thuật.

    - 1935-1945: Ông có 37 công trình khoa học đứng tên chung với các đồng nghiệp như giáo sư Huard, giáo sư Mayer-May, với các cộng sự và học trò Vũ Đình Tụng, Tôn Thất Tùng…, chủ yếu tập trung nghiên cứu và giải quyết các bệnh lý đặc trưng ở một nước nhiệt đới, nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam như: Điều trị các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn bằng phương pháp phẫu thuật hiện đại, công trình nghiên cứu về viêm tụy cấp tính, điều trị bằng phẫu thuật các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn, phương pháp mổ mới trong phẫu thuật sản, nghiên cứu tình trạng sốc do chấn thương, nghiên cứu thành công phẫu thuật chữa loét dạ dày – tá tràng ở Bắc Kỳ...

    - 12/1943: Được phong hàm Giáo sư. Ông là người Việt Nam duy nhất được giữ chức vụ này.

    - 8/1945: Sau cách mạng Tháng Tám 1945, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y dược Hà Nội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao nhiều trọng trách lớn như: Tổng thanh tra Y tế - Tổng Giám đốc Đại học vụ, Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy

    - 12/1946: Toàn quốc kháng chiến, GS. Hồ Đắc Di cùng các trí thức ngành y khác như bác sĩ Vũ Đình Tụng, Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Phạm hữu Trí... đã tổ chức các trạm cứu thương cứu chữa cho thương binh và nhân dân và phải di chuyển liên lục từ Vân Đình, lên Việt Bắc, Tuyên Quang.

    - 10/1947: Trường Đại học Y Dược trong kháng chiến khai giảng khóa đầu tiên tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, ông được cử giữ chức Hiệu trưởng của Trường

    - 10/1954: Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ông được cử vào đoàn tiếp quản ngành Y tế và được giao nhiệm vụ làm Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hà Nội.

    - 1958-1985: Chủ tịch Hội Y học Việt Nam rồi Tổng hội Y học Việt Nam.

    - 1960 -1976: Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa V; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV.

    - 1961: Ttrường Đại học Y Dược Hà Nội tách ra thành Trường Đại học Y khoa Hà Nội và Trường Đại học Dược khoa Hà Nội, ông tiệp tục giữ chức vụ hiệu trưởng trường Đại học Y khoa Hà Nội.

    - 1976: Nghỉ hưu.

    - 25/6/1984: Ông mất.

  • Công trình nghiên cứu:

    - Điều trị các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn bằng phương pháp phẫu thuật hiện đại

    - Bài luận phân tích thống kê phẫu thuật viết cùng giáo sư Huard và được đǎng tải trên tờ báo Y học Viễn Đông Paris

    - Nghiên cứu thủng túi mật hiếm gặp được đăng tải trên Tạp chí Viện Hàn lâm phẫu thuật (1937)

    - Nghiên cứu viêm phúc mạc do thủng ruột trong thương hàn được đăng bài trên Tạp chí Viện Hàn lâm phẫu thuật (1939)

    - Công trình nghiên cứu mổ kỹ thuật lấy thai nhi thay vì sinh đẻ thông thường được đăng tải trên tạp chí Y học Hải ngoại (Pháp)

    - Nghiên cứu tình trạng sốc do chấn thương, Y học Viễn Đông Paris (1944)

    - Phẫu thuật điều trị viêm phúc mạc ở Bắc Kỳ (1944)

    - Phẫu thuật chữa loét dạ dày - tá tràng ở Bắc Kỳ (1944)

  • Thông tin thêm:

    - Tên của ông được đặt cho 1 khu giảng đường của Trường Đại học Y Hà Nội, một phố (phố Hồ Đắc Di) trong khu Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

    - Tên ông đã được đặt cho một con đường tại Phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; một con đường ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế và cho một con phố của thành phố Thái Nguyên,tỉnh Thái Nguyên.

Giáo sư, Bác sĩ

Hồ Đắc Di

  • Họ và tên: Hồ Đắc Di
  • Ngày sinh: 8/4/1900
  • Ngày mất: 25/6/1984
  • Quê quán: xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
  • Dân tộc: Kinh
  • Chức vụ:

    - Giám đốc Trường Đại học Y Khoa Hà Nội (1945-1976)

    - Chủ tịch Hội Y học Việt Nam rồi Tổng hội Y học Việt Nam (1958-1985)

    - Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Khóa II, III, IV

    - Đại biểu Quốc hội: Khóa II, III, IV, V

  • Khen thưởng/Giải thưởng:

    - Huân chương Độc lập hạng Nhất

    - Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và hạng Ba

    - Huân chương Lao Động hạng Nhất và hạng Hai

    - Chiến sĩ thi đua toàn quốc (1952 và 1956)

    - Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa hoc, công nghệ (1996)

  • Cuộc đời sự nghiệp:

    - 1918: Được gia đình cho đi du học ở Pháp, học trung học ở Bordeaux.

    - 1920: Ông thi đậu vào Khoa Y, trường Đại học Tổng hợp Paris.

    - Sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa nội trú, ông được nhận vào bệnh viện Tenon, làm trợ lý cho giáo sư Gernez 4 năm. Tại đây, ông đã học phẫu thuật dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Gernez và Giáo sư Monlonguet. Trong thời gian này, ông đã sáng lập ra phương pháp mổ dạ dày (nối thông dạ dày - tá tràng) để điều trị chứng bệnh hẹp môn vị do loét dạ dày - tá tràng gây ra, thay thế phương pháp cắt bỏ dạ dày vẫn dùng trước đó.

    - 1931: khi về nước, được điều về làm bác sĩ thực tập tại bệnh viện Huế, rồi bị điều chuyển về Quy Nhơn.

    - 1932: Ông được bác sĩ Leroy des Barres, Hiệu trưởng Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương thuộc Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội mời về giảng dạy phụ sản tại Trường. Từ đó, ông vừa giảng dạy bên Trường Y Dược, vừa làm bác sĩ phẫu thuật tại Bệnh viện Phủ Doãn (đây là một bệnh viện của trường).

    - Lúc bấy giờ, trên toàn Đông Dương, chỉ có hai bác sĩ phẫu thuật được phép hành nghề là bác sĩ Leroy des Barres và bác sĩ Cartoux. Cả hai đều là người Pháp. Được sự hỗ trợ của bác sĩ Leroy des Barres, Hồ Đắc Di đã đấu tranh để đòi quyền được hành nghề phẫu thuật. Ông là người thứ ba và là người Việt đầu tiên được chính quyền thực dân Pháp cho làm bác sĩ phẫu thuật.

    - 1935-1945: Ông có 37 công trình khoa học đứng tên chung với các đồng nghiệp như giáo sư Huard, giáo sư Mayer-May, với các cộng sự và học trò Vũ Đình Tụng, Tôn Thất Tùng…, chủ yếu tập trung nghiên cứu và giải quyết các bệnh lý đặc trưng ở một nước nhiệt đới, nghèo nàn lạc hậu như Việt Nam như: Điều trị các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn bằng phương pháp phẫu thuật hiện đại, công trình nghiên cứu về viêm tụy cấp tính, điều trị bằng phẫu thuật các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn, phương pháp mổ mới trong phẫu thuật sản, nghiên cứu tình trạng sốc do chấn thương, nghiên cứu thành công phẫu thuật chữa loét dạ dày – tá tràng ở Bắc Kỳ...

    - 12/1943: Được phong hàm Giáo sư. Ông là người Việt Nam duy nhất được giữ chức vụ này.

    - 8/1945: Sau cách mạng Tháng Tám 1945, ông được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Đại học Y dược Hà Nội, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao nhiều trọng trách lớn như: Tổng thanh tra Y tế - Tổng Giám đốc Đại học vụ, Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy

    - 12/1946: Toàn quốc kháng chiến, GS. Hồ Đắc Di cùng các trí thức ngành y khác như bác sĩ Vũ Đình Tụng, Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Phạm hữu Trí... đã tổ chức các trạm cứu thương cứu chữa cho thương binh và nhân dân và phải di chuyển liên lục từ Vân Đình, lên Việt Bắc, Tuyên Quang.

    - 10/1947: Trường Đại học Y Dược trong kháng chiến khai giảng khóa đầu tiên tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, ông được cử giữ chức Hiệu trưởng của Trường

    - 10/1954: Thủ đô Hà Nội được giải phóng, ông được cử vào đoàn tiếp quản ngành Y tế và được giao nhiệm vụ làm Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hà Nội.

    - 1958-1985: Chủ tịch Hội Y học Việt Nam rồi Tổng hội Y học Việt Nam.

    - 1960 -1976: Đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa V; Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV.

    - 1961: Ttrường Đại học Y Dược Hà Nội tách ra thành Trường Đại học Y khoa Hà Nội và Trường Đại học Dược khoa Hà Nội, ông tiệp tục giữ chức vụ hiệu trưởng trường Đại học Y khoa Hà Nội.

    - 1976: Nghỉ hưu.

    - 25/6/1984: Ông mất.

  • Công trình nghiên cứu:

    - Điều trị các biến chứng viêm phúc mạc do thương hàn bằng phương pháp phẫu thuật hiện đại

    - Bài luận phân tích thống kê phẫu thuật viết cùng giáo sư Huard và được đǎng tải trên tờ báo Y học Viễn Đông Paris

    - Nghiên cứu thủng túi mật hiếm gặp được đăng tải trên Tạp chí Viện Hàn lâm phẫu thuật (1937)

    - Nghiên cứu viêm phúc mạc do thủng ruột trong thương hàn được đăng bài trên Tạp chí Viện Hàn lâm phẫu thuật (1939)

    - Công trình nghiên cứu mổ kỹ thuật lấy thai nhi thay vì sinh đẻ thông thường được đăng tải trên tạp chí Y học Hải ngoại (Pháp)

    - Nghiên cứu tình trạng sốc do chấn thương, Y học Viễn Đông Paris (1944)

    - Phẫu thuật điều trị viêm phúc mạc ở Bắc Kỳ (1944)

    - Phẫu thuật chữa loét dạ dày - tá tràng ở Bắc Kỳ (1944)

  • Thông tin thêm:

    - Tên của ông được đặt cho 1 khu giảng đường của Trường Đại học Y Hà Nội, một phố (phố Hồ Đắc Di) trong khu Nam Đồng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

    - Tên ông đã được đặt cho một con đường tại Phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; một con đường ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế và cho một con phố của thành phố Thái Nguyên,tỉnh Thái Nguyên.


Có (0) kết quả được tìm thấy cho từ khóa