Khởi nghĩa Hương Khê (Khởi nghĩa Phan Đình Phùng; Khởi nghĩa Hương Sơn; 1885-95)

Tháng 7.1885, sau khi kế hoạch tiến công quân Pháp ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến trong triều đình Nguyễn quyết định đưa Vua Hàm Nghi ra vùng Tân Sở (Quảng Trị) và Ấu Sơn (Hương Khê, Hà Tĩnh), hạ ‘‘Chiếu Cần Vương" kêu gọi các tầng lớp nhân dân tiếp tục chiến đấu, tạo nên phong trào chống Pháp rộng lớn trên cả nước. Một trong những cuộc khởi nghĩa lớn và tiêu biểu thời kì này là cuộc khởi nghĩa ở Hương Khê do Phan Đình Phùng tổ chức và lãnh đạo.
Sau khi bị cách chức về quê do không tán thành việc Tôn Thất Thuyết phế bỏ Vua Dục Đức để đưa Hiệp Hòa lên ngôi. Phan Đình Phùng đã bí mật tập hợp được một số lực lượng chuẩn bị chống Pháp. Tháng 9.1885, khi biết tin Vua Hàm Nghi ra sơn phòng Hương Khê (Hà Tĩnh), Phan Đình Phùng xin yết kiến nhà vua, được Tôn Thất Thuyết tin cậy phong chức Thống đốc Quân vụ đại thần, phụ trách Phong trào Cần Vương chống Pháp trên địa bàn 4 tỉnh Bắc Trung Kì (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình). Cuộc khởi nghĩa gồm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1 (1885-88), tập trung xây dựng lực lượng và căn cứ khởi nghĩa. Ngay sau khi nhận được “Chiếu Cần Vương” của Vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng gấp rút trở về làng Đông Thái phát động khởi nghĩa, xây dựng thành làng chiến đấu có hệ thống chốt canh gác, giao thông hào và công sự chiến đấu. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của nhân dân địa phương, đặc biệt đã tạo được sự phối hợp chiến đấu đầu tiên với nghĩa quân Lê Ninh đang hoạt động ở làng Trung Lễ thuộc huyện Đức Thọ. Đầu năm 1886, khi quân Pháp đánh vào làng Đông Thái, Phan Đình Phùng phải đưa quân về đóng ở núi Mồng Gà (Hương Sơn), rồi trở lại Phụng Công (nay thuộc xã Đức Hòa, huyện Đức Thọ), dùng cách đánh du kích chống lại quân Pháp. Tại đây, Phan Đình Phùng đã quy tụ được lực lượng nghĩa quân Cao Thắng đang hoạt động ở làng Phúc Dương (xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn).
Sau thời gian chiến đấu, nhận thấy lực lượng nghĩa quân còn non yếu, chưa đủ sức chống lại quân Pháp, năm 1887 Phan Đình Phùng quyết định trao quyền chỉ huy nghĩa quân cho Cao Thắng, rồi ra Bắc vận động các văn thân sĩ phu và liên lạc với các lãnh tụ Cần Vương, nhằm thống nhất phong trào yêu nước chống kẻ thù chung. Trong thời gian này, tranh thủ tình hình quân Pháp đang phải tập trung đối phó với hoạt động của các lực lượng nghĩa quân ở phía bắc, nhất là nghĩa quân Ba Đình ở Thanh Hóa (xem Khởi nghĩa Ba Đình, 1886-87), Cao Thắng cùng với các tướng lĩnh Cao Nữu, Cao Đạt và Nguyễn Niên phối hợp chỉ huy nghĩa quân vừa chống địch càn quét vừa củng cố lực lượng, chế tạo vũ khí, đồng thời chú trọng việc xây dựng căn cứ chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Với tài tổ chức chỉ huy của Cao Thắng, năm 1888, nghĩa quân đã xây dựng được 2 khu căn cứ đầu tiên là Cồn Chùa (vùng tiếp giáp 2 xã Sơn Lễ và Sơn Lâm, nay thuộc xã Sơn Giang, huyện Hương Sơn) và Thượng Bồng - Hạ Bồng (vùng tả ngạn sông Ngàn Sâu, nay thuộc 2 xã Bồng Đức và Đức Linh, huyện Đức Thọ), trong đó căn cứ Cồn Chùa chủ yếu làm nơi cất giấu lương thực, vũ khí và tạm tránh địch khủng bố; còn căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng được xây dựng khá hoàn chỉnh, gồm hệ thống phòng thủ vòng trong và vòng ngoài với gần 10 đồn tiền tiêu, có khả năng ngăn chặn địch từ xa, đồng thời có thể hỗ trợ cho nhau trong quá trình tác chiến, là nơi vừa tổ chức lực lượng chiến đấu, vừa chế tạo vũ khí mới.
Cùng với việc xây dựng căn cứ kháng chiến, Cao Thắng và các thủ lĩnh nghĩa quân đã biết dựa vào dân để xây dựng lực lượng, trên cơ sở đó động viên được nhân dân nhiều nơi ủng hộ lương thực và cho con em tham gia chiến đấu. Đặc biệt, nghĩa quân đã huy động được hàng trăm thợ rèn ở các làng Trung Lương, Văn Chàng, Đông Thái thuộc huyện Đức Thọ, cùng với thợ mộc ở các làng Thái Yên (Đức Thọ), Xa Lang (Hương Sơn), thợ đúc đồng và thợ bạc ở các huyện Can Lộc, Thạch Hà về căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng lập xưởng chế tạo vũ khí, trong thời gian vài tháng đã tự chế được hàng trăm súng kiểu 1874 của Pháp, góp phần quan trọng đáp ứng yêu cầu chiến đấu của nghĩa quân.

Giai đoạn 2 (1889-95), tiếp tục phát triển lực lượng, đẩy mạnh tiến công và chống địch càn quét, khủng bố. 

Khởi nghĩa Hương Khê (1885-95)

Sau thời gian tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, đầu năm 1889, Cao Thắng cử người ra Bắc đón Phan Đình Phùng về căn cứ tiếp tục lãnh đạo nghĩa quân (lúc này đã có khoảng 1 nghìn quân và hơn 500 súng). Ngay sau khi trở về Hương Khê, Phan Đình Phùng ra lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân cùng nhau hợp lực chống Pháp, đồng thời chủ trương tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng, mở rộng căn cứ đáp ứng yêu cầu chiến đấu lâu dài, theo đó nghĩa quân đã tận dụng địa hình rừng núi hiểm trở vùng tiếp giáp Hương Khê và Hương Sơn để xây dựng thêm 2 căn cứ mới là Trùng Khê - Trí Khê và Vụ Quang - Ngàn Trươi, với hệ thống đồn lũy kiên cố vừa có khả năng phòng thủ, vừa có thể tiến công. Dưới sự lãnh đạo của Phan Đình Phùng, các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp văn thân sĩ phu ở nhiều nơi được quy tụ, khiến cho thực lực và thanh thế của nghĩa quân phát triển nhanh chóng không chỉ ở Hà Tĩnh, mà ngày càng lan rộng hầu khắp các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình.

Để bảo đảm cho nghĩa quân có đủ khả năng đánh lâu dài, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ trên địa bàn rộng, Phan Đình Phùng tổ chức lực lượng thành 15 quân thứ (các quân thứ được gọi theo tên địa phương, quân số mỗi quân thứ từ 100 đến 500 người). Tại Hà Tĩnh có 10 quân thứ là Khê thứ (huyện Hương Khê) do Nguyễn Thoại và Trần Hữu Châu chỉ huy, Thạch thứ (huyện Thạch Hà) do Nguyễn Thuận và Trần Danh Lập chỉ huy, Cẩm thứ (huyện Cẩm Xuyên) do Hoàng Bá Xuyên chỉ huy, Nghi thứ (huyện Nghi Xuân) do Hà Văn Mĩ và Ngô Quảng chỉ huy, Kì thứ (huyện Kỳ Anh) do Võ Phát và Nguyễn Tiến Đắc chỉ huy, Can thứ (huyện Can Lộc) do Nguyễn Chanh và Nguyễn Trạch chỉ huy, Lại thứ (tổng Lại Trạch, huyện Can Lộc) do Phan Đình Nghinh chỉ huy, Diệm thứ (làng Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn) do Cao Đạt chỉ huy, Lễ thứ (làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ) do Nguyễn Cấp và Lê Trực chỉ huy, Hương thứ (huyện Hương Sơn) do Nguyễn Huy Giao chỉ huy. Nghệ An có 2 quân thứ là Anh thứ (phủ Anh Sơn) do Nguyễn Mậu chỉ huy, Diễn thứ (phủ Diễn Châu) do Lê Trọng Vinh chỉ huy. Quảng Bình có 2 quân thứ là Bình thứ (tỉnh Quảng Bình) do Nguyễn Thụ chỉ huy, Lệ thứ (huyện Lệ Thủy) do Nguyễn Bí chỉ huy. Thanh Hóa có 1 quân thứ là Thanh thứ do Cầm Bá Thước chỉ huy. Đây là hình thức tổ chức Lực lượng Vũ trang vừa có chức năng chiến đấu, vừa có chức năng hành chính, được xây dựng theo hệ thống từ tỉnh, phủ đến huyện, tổng, do thủ lĩnh tối cao Phan Đinh Phùng lãnh đạo chung, Cao Thắng nắm quyền Tổng chỉ huy Quân đội. Đại bản doanh nghĩa quân đặt tại Vụ Quang có khoảng 500 quân, riêng Phan Đình Phùng thường xuyên có đội quân cận vệ 20 người. Đồng thời với việc tổ chức và phát triển lực lượng, Phan Đình Phùng và Cao Thắng còn đặc biệt coi trọng việc học tập, huấn luyện nâng cao trình độ chiến thuật, kĩ thuật, kỉ luật chiến đấu và dân vận cho nghĩa quân tại đại bản doanh cũng như ở các quân thứ.

Sau khi bắt được Vua Hàm Nghi (1888) và tạm thời ổn định tình hình, tháng 11.1889, hội đồng toàn quyền Pháp ở Đông Dương quyết định giao việc đàn áp nghĩa quân Hương Khê cho lực lượng lính khố xanh ở Trung Kì, đồng thời tập trung lực lượng thiết lập hệ thống đồn bốt bao vây khu căn cứ nghĩa quân (riêng ở Hương Sơn xây dựng hơn 20 đồn, mỗi đồn ít nhất có 30 lính khố xanh đóng giữ), kết hợp các biện pháp càn quét, khủng bố nhằm triệt đường tiếp tế lương thực và ngăn chặn hoạt động của nghĩa quân xuống đồng bằng. Đối phó với âm mưu của địch, nghĩa quân chủ yếu dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu và công sự kiên cố để tổ chức phòng thủ, đồng thời phân tán lực lượng ra các nơi, sử dụng nhiều hình thức chiến thuật linh hoạt và nhiều loại vũ khí (có cả hầm chông, cạm bẫy) tiến hành phục kích, chặn đánh giao thông, tập kích các đồn lẻ... gây cho địch nhiều thiệt hại.
Giữa năm 1890, quân Pháp tập trung lực lượng càn quét vào căn cứ Thượng Bồng - Hạ Bồng nhưng không đạt kết quả, bị nghĩa quân chủ động tiến đánh ở Trung Lễ (Đức Thọ), Nam Huân (Can Lộc) và nhiều nơi khác trên đất Nghệ An, Hà Tĩnh. Từ năm 1891 đến 1893, quân Pháp tiếp tục tập trung lực lượng lớn, nhiều lần đánh vào các căn cứ Cồn Chùa, Thượng Bồng - Hạ Bồng, nhưng đều bị nghĩa quân kịp thời phát hiện và tổ chức ngăn chặn. Đặc biệt, ngày 23.8.1882, lợi dụng lúc quân địch đang càn quét vào căn cứ, một bộ phận nghĩa quân do Nguyễn Văn Thuận chỉ huy bất ngờ tập kích vào tỉnh lị Hà Tĩnh, diệt trại lính khố xanh, phá nhà lao rồi rút lui an toàn. Sau thất bại này, quân Pháp chuyển hướng càn quét xuống địa bàn các quân thứ ở đồng bằng, gây nhiều khó khăn và tổn thất cho nghĩa quân. Trước tình hình đó, Phan Đình Phùng và Cao Thắng thống nhất kế hoạch đánh ra Nghệ An, nhằm tiêu diệt sinh lực và phá thế bao vây của địch, đồng thời khuấy động phong trào đấu tranh của nhân dân tại đây.
Thực hiện kế hoạch trên, tháng 10.1893, Cao Thắng cùng các tướng Cao Nữu và Nguyễn Niên chỉ huy khoảng 1 nghìn nghĩa quân từ Hương Sơn theo hướng Thanh Chương, Nam Đàn về Vinh (Nghệ An). Trên đường tiến quân, nghĩa quân liên tiếp đánh thắng nhiều trận, nhưng trong trận đánh ngày 21.11.1893, với quân Pháp ở đồn Nu (xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương), Cao Thắng bị trúng đạn và hi sinh khi quay về căn cứ. Với tổn thất này, từ cuối năm 1893 trở đi hoạt động của nghĩa quân chủ yếu dựa vào phòng thủ để bảo toàn lực lượng. Đây cũng là thời điểm Phong trào Cần Vương ở các địa phương hầu hết tan vỡ, nên thực dân Pháp có thêm điều kiện tập trung lực lượng đàn áp và thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ nhằm bao vây tiêu diệt nghĩa quân Phan Đình Phùng.
Trước thủ đoạn vây ép của kẻ thù, Phan Đình Phùng chủ trương vừa củng cố lực lượng, vừa cố gắng tập kích tiêu diệt một số đồn bốt, phá thế bao vây của địch, tạo cơ hội chuyển toàn bộ lực lượng lên căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi. Trong quá trình di chuyển lực lượng, mặc dù liên tục bị quân Pháp truy đuổi, nghĩa quân vẫn thực hiện được một số trận tập kích thắng lợi ở Vạn Sơn (Nam Đàn, Nghệ An, 29.3.1894), Hà Tĩnh (31.3.1894),.. Sau trận chống càn kéo dài nửa tháng ở núi Đại Hàm (làng Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn), tháng 10.1894, nghĩa quân rút lên chốt giữ vùng núi gần suối Vụ Quang. Tại đây, Phan Đình Phùng dùng kế “sa nang úng thủy” cho chặt nhiều khúc gỗ thả nổi trên dòng suối đã được kè thành đập nước lớn, sẵn sàng chặn đánh quân Pháp truy kích tiến công. Thực hiện mưu kế của Phan Đình Phùng, ngày 26.10.1894, khi lực lượng lớn quân Pháp ngược theo dòng suối lọt vào vị trí đã chuẩn bị trước, nghĩa quân phá đập tạo thành dòng nước mạnh cuốn theo hàng trăm khúc gỗ lao xuống, kết hợp với lực lượng phục kích ở hai bên bờ đồng loạt nổ súng diệt hơn 100 địch, thu 50 súng (xem Trận Vụ Quang, 26.10.1894). Sau chiến thắng này, nghĩa quân còn tiếp tục đẩy lui một số cuộc càn quét khác của quân Pháp, nhưng nhìn chung vẫn không thay đổi được tình thế bị bao vây trong điều kiện so sánh lực lượng ngày càng bất lợi cùng với những khó khăn, thiếu thốn về vũ khí, lương thực.
Đầu năm 1895, Phan Đình Phùng dự định đem quân đánh vào sông Gianh (Quảng Bình) và phát triển lực lượng về phía nam, nhưng không đủ sức thực hiện. Đặc biệt từ 8.1895, hoạt động của nghĩa quân càng thêm khó khăn khi triều đình Huế cử Nguyễn Thân đem quân ra phối hợp đàn áp cuộc khởi nghĩa. Với lực lượng hơn gấp nhiều lần, quân Pháp cùng với quân triều đình tăng cường bao vây kiểm soát nhân dân, khóa chặt mọi đường giao thông và nguồn tiếp tế, đồng thời dùng quân cơ động liên tục càn quét dài ngày vào căn cứ, gây nhiều tổn thất cho nghĩa quân, trong đó có một số ra hàng như Đốc binh Phương, Nguyễn Duyệt, Đốc Trạch. Mặc dù Phan Đình Phùng chỉ huy nghĩa quân kiên cường chiến đấu, nhưng cuộc khởi nghĩa cũng chỉ tồn tại thêm vài tháng và bị dập tắt sau khi Phan Đình Phùng hi sinh vào ngày 28.12.1895 tại khu vực núi Quạt.

Khởi nghĩa Hương Khê là một trong những cuộc khởi nghĩa lớn nhất của Phong trào Cần Vương, xét cả về quy mô, thời gian hoạt động, tổ chức lực lượng, xây dựng căn cứ và công tác hậu cần phục vụ chiến đấu...; đồng thời, đây cũng là cuộc khởi nghĩa đánh dấu sự mở đầu và kết thúc của Phong trào Cần Vương sau hơn 10 năm chiến đấu. Mặc dù thất bại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan ở thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, nhưng cuộc khởi nghĩa đã mở ra một giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của tầng lớp văn thân sĩ phu yêu nước sau khi Triều Nguyễn đầu hàng, góp phần khẳng định ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho phong trào đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20.

Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)