Nhà viết kịch

Lưu Quang Vũ

  • Họ và tên: Lưu Quang Vũ
  • Ngày sinh: 17/4/1948
  • Ngày mất: 29/8/1988
  • Quê quán: Đà Nẵng
  • Khen thưởng/Giải thưởng:

    - Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (2000)

    - Ba huy chương vàng trong các kỳ hội diến sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc

    - Hai lần được Giải thưởng của Hội Văn Nghệ Hà Nội

    - Hai lần được giải thưởng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam

    - Được tặng thưởng văn học của Bộ Quốc phòng năm 1992

  • Cuộc đời sự nghiệp:

    - 1961: Khi mới 13 tuổi, Lưu Quang Vũ đã bắt đầu viết truyện ngắn “Đám trẻ con làng Á” là tác phẩm đầu tay của ông.

    - 1965-1970: Nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không-Không quân. Đây là thời kỳ thơ của ông bắt đầu nở rộ.

    - 1970: Xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích…

    - 1971-1978: Là giai đoạn sáng tác khá đặc biệt trong đời thơ, tâm hồn Lưu Quang Vũ như già đi trong những nhận thức đau buồn về đời, thơ ông đầy trăn trở, khao khát.

    - 1978-1988: Biên tập viên cho tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.

    - 29/8/1988: Ông mất trong vụ tai nạn giao thông cùng vợ là Xuân Quỳnh và con trai là Lưu Quỳnh Thơ.

    - 2000: Được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật, lĩnh vực sân khấu cho các tác phẩm: “Tôi và chúng ta”, “Lời thề thứ 9”.

  • Tác phẩm chính:

    - Thơ ca: Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa) với 20 bài thơ; Mây trắng của đời tôi (1989) với 30 bài thơ; Bầy ong trong đêm sâu (1993) với 40 bài thơ; Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994); Gửi tới các anh (1998); Di cảo (2008) với 29 bài; Những bông hoa không chết (2008) với 35 bài thơ

    - Biên kịch: Sống mãi tuổi 17; Người tốt nhà số 5 (1981); Nàng Sita (1982); Người trong cõi nhớ (1982); Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984); Tôi và chúng ta (1984); Ngọc Hân công chúa (1984); Khoảnh khắc và vô tận (1986); Tin ở hoa hồng (1986); Lời thề thứ 9 (1988); Điều không thể mất (1988); Bệnh sĩ (1988)

    - Truyện: Đám trẻ con làng Á (1961); Mùa hè đang đến (1983); Người kép đóng hổ (1984); Một vùng mặt trận (truyện vừa)

    - Tiểu luận: Diễn viên và sân khấu (viết cùng với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh, 1979).

Nhà viết kịch

Lưu Quang Vũ

  • Họ và tên: Lưu Quang Vũ
  • Ngày sinh: 17/4/1948
  • Ngày mất: 29/8/1988
  • Quê quán: Đà Nẵng
  • Khen thưởng/Giải thưởng:

    - Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (2000)

    - Ba huy chương vàng trong các kỳ hội diến sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc

    - Hai lần được Giải thưởng của Hội Văn Nghệ Hà Nội

    - Hai lần được giải thưởng của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam

    - Được tặng thưởng văn học của Bộ Quốc phòng năm 1992

  • Cuộc đời sự nghiệp:

    - 1961: Khi mới 13 tuổi, Lưu Quang Vũ đã bắt đầu viết truyện ngắn “Đám trẻ con làng Á” là tác phẩm đầu tay của ông.

    - 1965-1970: Nhập ngũ, phục vụ trong Quân chủng Phòng không-Không quân. Đây là thời kỳ thơ của ông bắt đầu nở rộ.

    - 1970: Xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích…

    - 1971-1978: Là giai đoạn sáng tác khá đặc biệt trong đời thơ, tâm hồn Lưu Quang Vũ như già đi trong những nhận thức đau buồn về đời, thơ ông đầy trăn trở, khao khát.

    - 1978-1988: Biên tập viên cho tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17” viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.

    - 29/8/1988: Ông mất trong vụ tai nạn giao thông cùng vợ là Xuân Quỳnh và con trai là Lưu Quỳnh Thơ.

    - 2000: Được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật, lĩnh vực sân khấu cho các tác phẩm: “Tôi và chúng ta”, “Lời thề thứ 9”.

  • Tác phẩm chính:

    - Thơ ca: Hương cây (1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa) với 20 bài thơ; Mây trắng của đời tôi (1989) với 30 bài thơ; Bầy ong trong đêm sâu (1993) với 40 bài thơ; Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994); Gửi tới các anh (1998); Di cảo (2008) với 29 bài; Những bông hoa không chết (2008) với 35 bài thơ

    - Biên kịch: Sống mãi tuổi 17; Người tốt nhà số 5 (1981); Nàng Sita (1982); Người trong cõi nhớ (1982); Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984); Tôi và chúng ta (1984); Ngọc Hân công chúa (1984); Khoảnh khắc và vô tận (1986); Tin ở hoa hồng (1986); Lời thề thứ 9 (1988); Điều không thể mất (1988); Bệnh sĩ (1988)

    - Truyện: Đám trẻ con làng Á (1961); Mùa hè đang đến (1983); Người kép đóng hổ (1984); Một vùng mặt trận (truyện vừa)

    - Tiểu luận: Diễn viên và sân khấu (viết cùng với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh, 1979).


Có (0) kết quả được tìm thấy cho từ khóa