Mộc bản Triều Nguyễn-di sản tư liệu vô giá

Mộc bản Triều Nguyễn là một loại hình tài liệu đặc biệt quý hiếm trong kho tàng lịch sử văn hóa Việt Nam, đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu thế giới đầu tiên của Việt Nam vào ngày 31/7/2009.

Mộc bản được hình thành chủ yếu bằng kỹ thuật khắc ngược ký tự Hán Nôm trên gỗ để in ra sách được sử dụng phổ biến trong thời kỳ phong kiến (ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Biên niên sử gỗ khắc về lịch sử dân tộc các thời kỳ

Mộc bản Triều Nguyễn là loại hình tài liệu đặc biệt về hình thức, nội dung và phương thức chế tác; là bản gốc của các bộ chính văn, chính sử nổi tiếng của Việt Nam được biên soạn, khắc in chủ yếu dưới Triều Nguyễn. Mộc bản được hình thành chủ yếu bằng kỹ thuật khắc ngược ký tự Hán Nôm trên gỗ để in ra sách được sử dụng phổ biến trong thời kỳ phong kiến và còn lưu giữ được đến ngày nay.

(Ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Dưới Triều Nguyễn, do nhu cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực xã hội, các điều luật bắt buộc thần dân phải tuân theo, đồng thời để lưu truyền công danh sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử… triều đình đã cho biên soạn và khắc in nhiều bộ chính sử, chính văn để ban cấp cho các nơi, trong quá trình hoạt động đó đã hình thành một loại hình tài liệu đặc biệt, đó là Mộc bản.

Quốc Sử quán và Nội các Triều Nguyễn là cơ quan được giao trọng trách thực hiện việc biên soạn, khắc in và bảo quản các bộ ván khắc Mộc bản.

Mộc bản Triều Nguyễn là những bộ “độc bản” chứa đựng nhiều thông tin quan trọng và quý giá, phục vụ việc in ấn, ban cấp cho các nơi. Dưới Triều Nguyễn, khối tài liệu này được xem như “quốc bảo” chỉ những người có thẩm quyền mới được tiếp xúc.

Giá trị nội dung của khối tài liệu thể hiện ở việc biên soạn rất công phu, là những bộ biên niên sử gỗ khắc về lịch sử dân tộc trải qua các thời kỳ.

Pho sách quý, mang tính biểu trưng của một vương triều

(Ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Mộc bản Triều Nguyễn là khối tài liệu gồm nhiều pho sách quý, mang tính biểu trưng của một vương triều. Mỗi tác phẩm từ khi biên soạn cho đến khi khắc in đều phải theo mệnh lệnh của vua.

Năm Giáp Thìn (1844), sau khi tiếp nhận biểu tâu trình của các đại thần về việc khắc in bộ Liệt thánh thực lục (Đại Nam thực lục tiền biên), Vua Thiệu Trị đã ban dụ: “Xem qua tờ tâu, trẫm rất vui lòng, vì tín sử của đời thanh bình là để lại chỉ bảo cho đời sau, sự thể rất là quan trọng… Vậy nên cho khắc vào gỗ lê gỗ táo, in để dài lâu. Rồi đến các bộ Thực lục chính biên về đời Thế tổ Cao hoàng đế và Thánh tổ Nhân hoàng đế, soạn xong cũng lần lượt kính cẩn cho khắc in nộp vào kho sách, càng thêm vẻ vang cho các đời của nước Đại Nam ta, đời nào cũng thịnh và để truyền bảo phép tắc lớn mãi mãi đến triệu muôn năm sau”.

Trong lời dụ phê chuẩn bản thảo đem đi khắc in, ngay cả vua cũng phải dùng từ “kính cẩn” thì chỉ cần nhắc tới ván khắc (Mộc bản), các sử thần đều phải tỏ lòng kính ngưỡng vì đó là sách của triều đình. Như vậy, khác với những khối Mộc bản tồn tại cùng thời kỳ, Mộc bản Hoàng triều được sản sinh theo quy trình nghiêm ngặt, cẩn trọng và luôn được bảo quản trong điều kiện tốt nhất của triều đình.

Mỗi bản khắc là một tác phẩm nghệ thuật điêu luyện

Về kỹ thuật khắc in Mộc bản Triều Nguyễn, nhiều nhà nghiên cứu và du khách tham quan đã phải thốt lên rằng: “Mỗi bản khắc là một tác phẩm nghệ thuật điêu luyện!”; bởi những nét chữ sắc sảo, uyển chuyển, đều đặn hiện lên trên thớ gỗ như họa bút của các bậc danh gia thư pháp nổi tiếng đương thời.

(Ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Đỉnh cao của kỹ thuật chế tác Mộc bản Triều Nguyễn chính là nghệ thuật khắc họa chi tiết từng đường nét rồng bay, phượng múa, hoa văn, họa tiết, bản đồ, họa đồ và hình ấn triện của nhà vua. Như vậy, có thể thấy rằng, Mộc bản Triều Nguyễn có giá trị rất cao về mỹ thuật, là đối tượng nghiên cứu không thể bỏ qua của nghệ thuật thư pháp, hội họa và đặc biệt là điêu khắc.

Nguồn sử liệu vô giá

Trong kho tàng Mộc bản mà Triều Nguyễn để lại cho hậu thế, có rất nhiều pho sách quý, đặc biệt là những bộ quốc sử, được triều đình biên soạn hết sức công phu, có giá trị lớn, chứa đựng nhiều thông tin chân xác về thời cuộc.

Trong số hơn 100 bộ sách thuộc khối Mộc bản Triều Nguyễn, có thể kể đến một số bộ sách kinh điển, được các nhà nghiên cứu khoa học, văn hóa, lịch sử đánh giá rất cao. Đó là:

Đại Việt sử ký toàn thư, còn gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương (năm 2879 TCN) đến đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê (năm 1675). Bộ sử được khắc...

Bộ Đại Nam thực lục là bộ quốc sử lớn nhất, quan trọng nhất của Triều Nguyễn do Quốc Sử quán biên soạn. Bộ sử này được các sử thần nối tiếp nhau biên soạn và khắc in trong gần 100 năm, từ năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) đến đời vua Khải Định (1916-1925). 

(Ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệlà bộ sách do Nội các Triều Nguyễn biên soạn rất công phu, kéo dài 12 năm, bộ sách chứa đựng một khối lượng đồ sộ những kiến thức, sử liệu, đặc biệt là về thiết chế và hoạt động của bộ máy nhà nước Triều Nguyễn.

Minh Mệnh chính yếu do Quốc Sử quán Triều Nguyễn biên soạn vào năm Minh Mệnh thứ 18 (1837); “Chính yếu” được hiểu là những “đại yếu của chính thể”. Đó là những chính sách lớn, cốt yếu được đưa ra thi hành. Theo quy định, những việc lớn thì được chép rõ ràng, đầy đủ, còn việc nhỏ thì chép sơ lược…Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), sách biên soạn xong, sau đó tiến hành khảo duyệt.

Đại Nam nhất thống chí được biên chép một cách tổng quát và đầy đủ những việc, sự tích của từng tỉnh, thành từ năm Thành Thái thứ 18 (1906) trở về trước. Sách gồm các mục: Phân dã (ranh giới), diên cách (quá trình hình thành và phát triển), hình thể, khí hậu, phong tục, thành trì, học hiệu (trường học), hộ khẩu, điền phú (thuế ruộng đất), sơn tấn (đồn ải), dịch trạm, lý lộ (đường sá), bến đò, cầu cống, đê điều, chợ, nhân vật (gồm có: con có hiếu, liệt nữ, tăng thích…) và thổ sản của địa phương.

Bên cạnh đó, các vua Triều Nguyễn cũng rất coi trọng những bộ sách được biên soạn và khắc in từ thời Lê. Năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), Vua sai quan Bắc thành “kiểm xét những bản in nguyên trữ ở Văn Miếu về các sách Ngũ kinh, Tứ thư đại toàn, Vũ kinh trực giải (bản in của Quốc Tử giám nhà Lê) cùng Tiền Hậu chính sử (bản in riêng của Hậu quân tham mưu Nguyễn Bá Khoa) và Tứ trường văn thể (bản in riêng của Trấn thủ Hải Dương Trần Công Hiến), gửi về Kinh để ở Quốc Tử Giám”. Do vậy, Mộc bản của Triều Nguyễn vừa phong phú, chuẩn xác về nội dung vừa đa dạng về nguồn gốc xuất xứ.

Ngày nay, khi tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, xã hội thời cổ đại, trung đại và cận đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu chủ yếu dựa trên những cứ liệu của các tác phẩm còn lưu giữ được như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam nhất thống chí,… Các bộ sách này đều được in từ khối Mộc bản Triều Nguyễn – Di sản Tư liệu thế giới, hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

(Ảnh Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV)

Khối Mộc bản Triều Nguyễn hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV gồm 34.619 tấm, được tạm chia thành hơn 100 đầu sách với nhiều chủ đề như: lịch sử, địa lý, chính trị-xã hội, quân sự, pháp chế, văn hóa-giáo dục, tôn giáo-tư tưởng-triết học, ngôn ngữ-văn tự; văn thơ. Đây là nguồn sử liệu tin cậy, còn khá nguyên vẹn để khảo cứu, đối chiếu, phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam trên nhiều lĩnh vực./.

Anh Anh (tổng hợp)

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV