Nhà lãnh đạo tài năng, nhà lý luận sắc sảo của Đảng và cách mạng Việt Nam

Với 29 tuổi đời, hơn 13 năm tham gia cách mạng, 7 năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn 2 năm làm Tổng Bí thư của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

* Tấm gương trưởng thành qua thực tiễn cách mạng

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9/7/1912 trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng ở làng Phù Khê, xã Phù Khê, huyện Từ Sơn (nay là phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, là hậu duệ đời thứ 17 của đại thi hào - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi.
Năm 1927, đồng chí lên Hà Nội học và thi đỗ vào trường Bưởi (nay là Trường Trung học Chu Văn An). Tại đây, đồng chí tham gia tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1928, đồng chí tham gia vào các phong trào vận động quần chúng đứng lên đấu tranh chống sự áp bức bóc lột của đế quốc và bè lũ tay sai. Vì những hoạt động này, đồng chí bị đuổi học giữa khóa.
Cuối năm 1928, đồng chí bí mật rời Bắc Ninh ra vùng mỏ Đông Bắc hoạt động. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Văn Cừ sống ba cùng với giai cấp công nhân (cùng ăn, cùng ở và cùng làm), để rồi suốt đời phấn đấu hi sinh vì lý tưởng của giai cấp đó, trở thành người lãnh đạo cao nhất trong phong trào cách mạng vùng mỏ Đông Bắc của Tổ quốc, năm đó đồng chí mới 17 tuổi. Tháng 6/1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời, đồng chí trở thành đảng viên của Đảng và được phân công phụ trách các chi bộ ở Cẩm Phả, Cửa Ông. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (tháng 2/1930), đồng chí được cử là Bí thư đặc khu Hòn Gai-Uông Bí. Đồng chí đã lãnh đạo phong trào cách mạng ở vùng mỏ phát triển mạnh mẽ.
Có thể nói, thực tiễn và phong trào cách mạng đã tôi luyện người thanh niên yêu nước Nguyễn Văn Cừ trong thời gian đi "vô sản hoá" ở vùng mỏ Quảng Ninh, trở thành người chiến sĩ cộng sản, nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Đồng chí đã nhận thức được khả năng to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam, đã giác ngộ, vận động họ đứng lên làm cách mạng. Với tinh thần vừa làm vừa học, năng động, sáng tạo trong lý luận và thực tiễn, đồng chí tổ chức nhiều cuộc mít tinh, kêu gọi công nhân đấu tranh. Tờ báo “Than” do đồng chí trực tiếp chỉ đạo và là người biên tập chính, đã được phát hành rộng rãi trong vùng, có tác dụng rất lớn trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cổ vũ và hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Sau hai năm "vô sản hoá", đồng chí đã trở thành một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào công nhân vùng mỏ.
Khi bị địch bắt, bị giam cầm, tra tấn tại nhà tù Côn Đảo, Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí "biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng".
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện tư chất của một người cộng sản có tầm nhìn xa rộng, có quyết tâm và nghị lực lớn, có khả năng phân tích, khái quát, nhận định chính xác các vấn đề trong nước và quốc tế theo tinh thần phương pháp luận Mác-Lênin, sớm trở thành một tài năng chính trị kiệt xuất của Đảng ta.
Năm 1936, trước áp lực của các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Nhân dân ta và phong trào Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị Côn Đảo được trả tự do. 

* Nhà lãnh đạo xuất sắc, sáng tạo của Đảng
Sau khi được trả tự do, đồng chí đã liên lạc với Đảng, khôi phục cơ sở đảng, nuôi dưỡng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng và đã thành công trong việc lập lại Xứ ủy Bắc  Kỳ. Tài năng tổ chức và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của đồng chí đã góp phần củng cố công tác tổ chức của Đảng và đưa các hoạt động của Đảng theo kịp sự phát triển của phong trào cách mạng, sửa đổi phương pháp tổ chức và lề lối làm việc của thời kỳ hoạt động bí mật cho phù hợp với tình hình mới, đồng thời chống lại tư tưởng cô độc, hẹp hòi trong công tác của đảng viên.
Với phẩm chất, trí tuệ và tài năng tổ chức và chỉ đạo thực tiễn của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 9/1937), đồng chí được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Chỉ hơn sáu tháng sau, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 3/1938), đồng chí được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Là nhà lãnh đạo cao nhất của Đảng trong một giai đoạn vô cùng phức tạp và gian khó, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có những đóng góp quyết định trong việc vạch ra chiến thuật và chiến lược của cách mạng Việt Nam, để đưa phong trào đấu tranh của dân tộc lên một tầm cao mới vào những năm sau đó.
Với khả năng nhạy bén, nắm bắt tình hình trong nước và ngoài nước, thêm vào đó là trình độ lý luận chính trị xuất sắc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo thay đổi chiến lược cách mạng, tạo ra bước ngoặt quan trọng - giai đoạn cách mạng những năm 1938-1942, giai đoạn cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Đầu tháng 4/1938, nhận thấy tình hình quốc tế đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã đặt vấn đề chuyển hướng chiến lược của Đảng. Trong một loạt bài viết đăng trên báo Dân chúng, đồng chí đã phân tích tình hình, vạch rõ nguy cơ chiến tranh phát xít ở châu Á và Đông Dương, kêu gọi nhân dân đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa chống chiến tranh phát xít. Chuẩn bị để Đảng rút vào hoạt động bí mật, chủ động ứng phó với tình hình diễn biến mau lẹ, đồng chí đã cho phát hành cuốn Công tác bí mật của Đảng, gửi đến đảng bộ các cấp. Đầu tháng 9/1939, đồng chí triệu tập và chủ trì Hội nghị mở rộng Xứ ủy Bắc Kỳ, phổ biến tình hình và quyết định rút số cán bộ hoạt động công khai vào hoạt động bí mật, phân công một số đồng chí cán bộ Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội đi xây dựng căn cứ ở những địa bàn chiến lược, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang khi có điều kiện.
Ngày 6/11/1939, hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp tăng cường khủng bố cách mạng nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định. Hội nghị đã phân tích thấu đáo tính chất cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai; vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh; những chính sách của đế quốc Pháp; thái độ của các giai cấp, tầng lớp xã hội, từ đó vạch ra đường lối chính trị của cách mạng trong tình hình mới. Hội nghị chủ trương tập trung mọi lực lượng vào nhiệm vụ chủ yếu là chống đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, xác định giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc là nhiệm vụ cấp bách nhất và là mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt Nam; đồng thời quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. Phương pháp cách mạng chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và không hợp pháp, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.
Quyết định của Hội nghị Trung ương 6 chuyển hướng chiến lược và thay đổi khẩu hiệu cách mạng trước tình hình mới là hết sức sáng suốt, thể hiện sự nhạy bén chính trị, năng lực sáng tạo của Ban Chấp hành Trung Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Hội nghị đã giải quyết đúng mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, dân tộc và giai cấp trong điều kiện cụ thể nhằm tập hợp lực lượng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chuẩn bị bước tới cao trào cách mạng, tiến lên giành chính quyền về tay nhân dân. Do có chủ trương chuyển hướng chiến lược đúng đắn và sự chỉ đạo kịp thời mà phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển, lực lượng cách mạng tránh được tổn thất khi kẻ thù trở mặt đàn áp, khủng bố. Đáng tiếc là, giữa lúc phong trào vận động giải phóng dân tộc mới bắt đầu tiến triển thì đầu năm 1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt khác của Đảng bị bắt. Tuy nhiên, những chủ trương và quyết định đúng đắn do Hội nghị Trung ương 6 vạch ra tiếp tục được các Hội nghị Trung ương tiếp theo kế thừa, phát triển, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.

* Nhà lý luận sắc sảo, một cây bút trên mặt trận tư tưởng
Không chỉ là một nhà chính trị xuất sắc, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ còn là một nhà lý luận, một cây bút trên mặt trận tư tưởng. Tuy chưa một lần ra nước ngoài, chưa trải qua một trường lớp huấn luyện chính quy của Đảng, nhưng đồng chí đã tỏ rõ khả năng lý luận xuất sắc. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đã được giải quyết một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn, phù hợp với quy luật vận động khách quan.
Những bài báo và đặc biệt là tác phẩm “Tự chỉ trích” do chính đồng chí viết tháng 7/1939 là một tác phẩm tổng kết thực tiễn sâu sắc, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, một đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng đã viết công khai: “Những người cộng sản có bổn phận nói sự thật cho quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chứ không phải theo đuôi hay phỉnh phờ họ. Và dù có sai lầm, có thất bại, thì “phải có can đảm mở to mắt ra nhìn sự thật”. Đồng chí yêu cầu Đảng phải “công khai, mạnh dạn, thành thực vạch ra những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng mà làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ”.
Tác phẩm “Tự chỉ trích” là mẫu mực về tinh thần tự phê bình và phê bình của Đảng ta, thể hiện tinh thần kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, cả tả khuynh và hữu khuynh, làm sáng tỏ đường lối, quan điểm của Đảng, góp phần đập tan mọi sự mơ hồ, lẫn lộn trong tư duy và hành động của cán bộ, đảng viên, đi tới sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. “Tự chỉ trích” không chỉ đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng trong nước lúc đó, mà tinh thần, nội dung và những vấn đề phương pháp luận trong tác phẩm này vẫn soi rọi và chỉ dẫn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. 
Trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Bước vào giai đoạn phát triển mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp.
Trong ba kỳ đại hội gần đây, Đảng đều chọn Hội nghị Trung ương 4 là hội nghị đầu mỗi khóa để bàn về công tác xây dựng Đảng. Kết luận số 21-KL/TW về "Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”" của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã mở rộng phạm vi, không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Điều này khẳng định Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện là then chốt để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.
Với tinh thần của tác phẩm “Tự chỉ trích”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã tự phê bình sâu sắc khi nhìn thẳng vào khuyết điểm: một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Khắc phục những khuyết điểm đó cần đến hệ thống giải pháp, trong đó giải pháp đầu tiên được nêu ra là “tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình”.
Để thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 kết hợp với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần quan điểm tự phê bình và phê bình của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ cho rằng, đối với một đảng chính trị, việc mắc phải khuyết điểm, thậm chí sai lầm là khó tránh khỏi. Điều quan trọng là phải biết tự phê bình, "công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi... để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chứ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng... vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ của Đảng"; không giấu giếm khuyết điểm; cũng không để kẻ địch và các phần tử xấu lợi dụng phá hoại... Những tư tưởng đó của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đến nay vẫn còn nguyên giá trị./.

Diệp Ninh (tổng hợp)