Nhà thơ Nông Quốc Chấn - người mang núi rừng Việt Bắc vào thi ca

Hà Nội (TTXVN 18/11/2023) Một điều dễ nhận thấy, hầu hết trong những sáng tác của nhà thơ Nông Quốc Chấn, bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Bắc đã được thể hiện một cách sinh động, chân thực, trong đó nổi bật là văn hóa Tày.

* Người con ưu tú của núi rừng Bắc

Nhà thơ Nông Quốc Chấn tên thật là Nông Văn Quỳnh, sinh ngày 18/11/1923, trong một gia đình trí thức ở nông thôn miền núi, tại xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Ông mất ngày 4/2/2002, tại Hà Nội.

Sinh thời, ông là một thanh niên dân tộc ít người sớm giác ngộ cách mạng. Ông đã tham gia Mặt trận Việt Minh và tham gia du kích và giải phóng quân trước tháng 8 năm 1945.

Nông Quốc Chấn trước hết là một nhà hoạt động văn hóa đầy tâm huyết và mẫu mực. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông vẫn tiếp tục hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia Tỉnh uỷ tỉnh Bắc Cạn và bắt đầu hoạt động văn hóa văn nghệ.

Sau năm 1954, ông tham gia khu ủy Việt Bắc, Ông là đại biểu Quốc hội khoá II, Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật Khu tự trị Việt Bắc, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên rồi Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.

Từ năm 1964, Ông là Thứ trưởng Bộ Văn hoá kiêm Hiệu trưởng Đại học Văn hoá, Hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du, Chủ tịch Hội Văn hoá Văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Uỷ viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Toàn cảnh sự kiện và dư luận.

Trong suốt cuộc đời hoạt động văn hoá, nghệ thuật của mình, ông luôn luôn nhấn mạnh đến việc thể hiện, ngợi ca những vẻ đẹp của nền văn hoá dân tộc - mà ở đây cụ thể là vẻ đẹp của nền văn hoá Tày Việt Bắc.

 * Cánh chim đầu đàn của những người cầm bút các dân tộc thiểu số

Nhà thơ Nông Quốc Chấn được xem là cánh chim đầu đàn của những người cầm bút các dân tộc thiểu số. Ông cũng là một trong số ít người dịch thơ văn từ tiếng Việt sang tiếng Tày, mà người ta quen gọi là dịch ngược. Đây là một công việc rất khó. Nó không chỉ đòi hỏi vốn ngôn ngữ (từ vựng- ngữ pháp) của hai dân tộc Kinh và Tày, mà còn đòi hỏi vốn văn hóa sâu, rộng, am hiểu thấu đáo các phong tục tập quán, cách cảm, cách nghĩ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của cả hai dân tộc ấy. Dẫu biết rằng cùng sống chung trên dải đất hình chữ S, nhưng mỗi dân tộc lại có địa bàn cư trú khác nhau về không gian đại lý, có truyền thống lịch sử và văn hóa, phong tục tập quán do tổ tiên họ để lại không giống. Vì thế, đến nay không có nhiều người làm được công việc này như nhà thơ Nông Quốc Chấn.

Trong số các tác giả thơ là người dân tộc Tày như Nông Quốc Chấn, Y Phương, Dương Thuấn, Mai Liễu, Ma Văn Đức, Tống Đại Hồng, Hà Tuấn Đôn, Hà Thuấn, Nguyễn Đôn... mỗi người một vẻ, nhưng có lẽ chưa ai có thể vượt qua được “cây đại thụ” Nông Quốc Chấn. Bởi ngoài năng khiếu trời cho, ông sinh ra và lớn lên phần lớn thời gian đều sống ở vùng núi phía Bắc, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Như thế có nghĩa là Nông Quốc Chấn được tắm mình trong môi trường văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam từ bé cho đến khi luống tuổi.

Đã vậy, từ rất sớm, ông đã tham gia các hoạt động chính trị, xã hội như Mặt trận Việt Minh, Giải phóng quân và làm cán bộ văn hóa ở địa phương và trung ương, nên tầm hiểu biết được khai mở rất nhiều.

Tuy nhiên, dù đi nhiều, biết lắm, nhưng ông không đánh mất bản sắc dân tộc Tày của mình, trong công việc nhiệm sở, sinh hoạt hàng ngày cũng như trong thơ ca. Cho nên, nói đến thơ Nông Quốc Chấn là nói về một vùng văn hóa phong phú, đa dạng và sống động của đồng bào Tày sống trên vùng núi phía Bắc nước ta. Ông chính là người lưu giữ hồn vía văn hóa Tày trong các tác phẩm thơ của mình.

Đặc biệt, ngoài tư cách nhà thơ, ông còn là một nhà nghiên cứu, lý luận và một nhà văn hóa mang tầm cỡ quốc gia. Ý thức về việc cần phải bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình xây dựng một nền văn hoá Việt Nam hiện đại luôn thường trực trong ông. Ông coi việc thể hiện, ngợi ca những vẻ đẹp của nền văn hóa của các dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Tày nói riêng ở vùng núi phía Bắc Việt Nam, là sứ mệnh cao cả và thiêng liêng của các văn nghệ sĩ .

Có thể nói những bài thơ của Nông Quốc Chấn như những bức tranh được vẽ nên bằng lời về phong cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc với đủ các loại cây, hoa rừng, sông, suối, trời, mây... Khuất xa là những bản làng của người Tày, Dao, Mông. Ở đấy chứa đựng bao phong tục, tập quán tốt đẹp, bao số phận con người đang ngày đêm sống, lao động, chiến đấu chống lại kẻ thù chung của dân tộc, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt đang rình rập ngày đêm hòng cướp đi mạng sống của con người.

Đọc thơ ông, người ta nhận thấy rất rõ: cách cảm, cách nghĩ, cách nói, cách diễn đạt của người miền núi với thứ ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, giàu hình ảnh với giọng điệu thơ vui tươi, hồn nhiên, chân thật nhưng cũng rất lãng mạn, bay bổng. Và đó chính là những yếu tố làm nên tính dân tộc trong thơ ông, làm nên phong cách nghệ thuật của ông.

Thiên nhiên trong thơ Nông Quốc Chấn là hình ảnh núi rừng Việt Bắc vừa hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội, vừa bí ẩn, vừa gần gũi, thân quen, hiền hoà; là những người mẹ tảo tần lượm củi, hái măng, trồng ngô, cấy lúa... để nuôi chồng, nuôi con, nhưng cũng sẵn sàng động viên họ lên đường tòng quân đánh giặc khi chúng nó đến xâm phạm bờ cõi, làng bản quê hương mình; là những chàng trai, cô gái Tày khoẻ mạnh, ngực căng đầy nhựa sống, ngày đêm hăng say lao động, làm ra lúa ngô để nuôi sống mình và người thân, nhưng cũng rất ngoan cường, anh dũng trong chiến đấu chống lại kẻ thù bảo vệ quê hương, bản làng. Tất cả những hình ảnh ấy, chúng ta có thể bắt gặp ở hầu hết những trang thơ của Nông Quốc Chấn.

Một Việt Bắc đẹp giàu khi hoà bình lập lại, đón cuộc sống mới với cảm xúc say nồng:

Em ơi! Việt Bắc đẹp giàu

Núi rừng trùng điệp muôn màu cỏ hoa

Trên Phia Dạ mây mù buông chướng

Dưới đất kia: sắt, quặng, bạc, vàng

Đi thuyền Ba Bể dọc ngang

Xem người đánh cá, xem nàng hái ngô

Hoa sơn hoa nở bốn mùa

Ve kêu chim hót ước mơ phặc phiền

(Tiếng ca người Việt Bắc)

Bài thơ Dọn về làng  - Giải thưởng ở Ðại hội Thanh niên, sinh viên thế giới Berlin (1951) là một trong những bài thơ đầu tay của Nông Quốc Chấn đã được đưa vào sách giáo khoa trung học phổ thông từ rất sớm. Bài mang tâm cảm đặc biệt về chiến thắng Cao Lạng:

Mé! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng dày như củi

Người dân hân hoan khi quê hương giải phóng:

Hôm nay Cao Bắc Lạng cười vang Dọn lán, rời rừng, người xuống làng Người nói cỏ lay trong ruộng rậm Con cày mẹ phát ruộng ta quang.

Đặc biệt hình tượng Bác Hồ đã được nhà thơ Nông Quốc Chấn  khắc họa, giống như một cụ già Tày- Nùng trong bài thơ Bộ đội Ông Cụ:

Lại có Cụ Già chân đi đất,

Mặc bộ quần áo Nùng,

Tay cầm cái gậy mây rừng,

Miệng ngậm một điếu can không khói,

Bộ râu dài vừa trắng vừa đen,

Chân tay nhanh nhẹn như thanh niên...

Cụ Già cười, vẫy chào người đứng đón

Khi ǎn cơm chiều,

Bộ đội đếm: một, hai... ngồi trật tự.

Cụ đi từng bàn xem bát đũa.

Cho thổi còi, rồi Cụ ǎn sau.

Mọi người rủ nhau

Đốt đuốc đến xem quân Ông Cụ.

Người già đến, Cụ mời ngồi niềm nở,

Trẻ con lại, Cụ bế xoa đầu.

Cụ nói, dân nghe rõ từng câu-

“Muốn cách mệnh thành công mau!

Ta phải đoàn kết như bó đũa...!”

Gà đã gáy lượt đầu,

Nhưng tiếng vỗ tay còn như nứa nổ…

Rõ ràng, chỉ có người Tày mới có cách cảm, cách nghĩ và cách vẽ về chân dung vị cha già kính yêu của toàn dân tộc ta như vậy.

Đặc biệt, nhà thơ Nông Quốc Chấn là người có có ý thức và có tài sử dụng lời ăn, tiếng nói thường nhật, các thành ngữ, tục ngữ, điển cố cũng như các truyện thơ dân gian của người Tày trong các thi phẩm của mình:

Người không biết thì gỗ tốt cũng thành gỗ mục

Người biết thì gỗ đánh sơn thành ngọc, thành vàng

Nửa người bị nước xô, nửa người bị lửa cháy

Chặt chuối- tơ không đứt

 (Người núi Hoa). 

* Các tác phẩm và giải thưởng

- Thơ tiếng Việt:

Tiếng ca người Việt Bắc (1959)

Người núi Hoa (1961)

Đèo Gió (1968)

Dòng Thác (1971)

Bước chân Pắc Bó (thơ, 1971)

Suối và biển (1984)

Bộ đội Ông Cụ

- Thơ tiếng Tày:

Việt Bắc đánh giặc

Dọn về làng

Đi Berlin về

Tiếng lượn cần Việt Bắ

Cần Phja Bjoóc

Dám kha Pác Bó

Mười điều kháng chiến (1 tập)

Tác phẩm tiếng Việt dịch ra tiếng Tày

- Tiểu luận-phê bình:

Đường ta đi (1972)

Một vườn hoa nhiều hương sắc (1977)

Chặng đường mới (1985)

Dân tộc và văn hóa (1993)

Hành trang sang thế kỷ XXI (2000)

 

- Giải thưởng Văn học bài thơ Dọn về làng tại Đại hội Thanh niên, Sinh viên thế giới ở Berlin, 1951

- Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam, 1954

- Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, 1958

- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II, năm 2000./.

 

Phương Phương (tổng hợp)