Quan điểm của Đảng về phát huy nguồn lực và tính tiên phong của văn hóa
Hà Nội (TTXVN 22/11/2021) Trong quá trình phát triển, văn hóa luôn là một dòng chảy liên tục, có sự kế thừa, bổ sung, điều chỉnh; giữ vai trò vừa là động lực nội sinh quan trọng, vừa là hệ điều tiết trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây cũng là quan điểm được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước ta cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc.
* Quan điểm của Đảng về phát huy nguồn lực và tính tiên phong của văn hóa
Nguồn lực văn hóa là nguồn lực được kết tinh trong các giá trị văn hóa của một dân tộc, một cộng đồng, được biểu hiện thông qua các giá trị văn hóa vật thể, giá trị văn hóa phi vật thể và trong các hoạt động văn hóa của con người - chủ thể sáng tạo văn hóa.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Người chỉ rất rõ mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế và chính trị: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.
Cùng với chính trị và kinh tế, văn hoá Việt Nam giữ một vai trò và vị trí trọng yếu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã xác định Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, trong đó chỉ ra các lợi thế và nguồn lực phát triển, trước tiên là nguồn nhân lực và con người Việt Nam. Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hóa, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... là nguồn lực quan trọng nhất.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” có ý nghĩa chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII xác định mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế: “Hai vấn đề về văn hóa và kinh tế-xã hội gắn chặt nhau, vừa là những vấn đề cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt”. Khẳng định vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, Nghị quyết đã nêu rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” và nhấn mạnh: “Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế-xã hội, pháp luật, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”. Nghị quyết cũng nhấn mạnh vai trò nhân tố con người và văn hóa, đó là góp phần quan trọng gia tăng sự cố kết cộng đồng, tạo nên sự thống nhất và đồng thuận xã hội, hướng đến cái đúng, cái tốt, cái đẹp để tạo lập nền tảng tinh thần vững chắc cho xã hội, đồng thời là động lực, là nguồn lực thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Để cụ thể hóa việc phát huy nguồn lực văn hóa cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. Trong đó, Nghị quyết đề cập đến chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế. Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa; đồng thời, bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính sách văn hóa trong kinh tế bảo đảm văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế hỗ trợ nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa.
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Trong Nghị quyết này, Đảng ta nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế-xã hội.
“Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12-4-2012) cũng khẳng định quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân…
Trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Đảng ta khẳng định một trong những quan điểm phát triển là mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển; phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đây là một trong ba khâu đột phá chiến lược để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định những quan điểm, chủ trương rất mới, sâu sắc và toàn diện, đột phá về phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực; xác định ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục đào tạo; đẩy mạnh và thúc đẩy, đa dạng hóa các loại hình và hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam...
Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là chủ trương, đường lối đúng đắn, là cơ sở quan trọng để Nhà nước thể chế hóa, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả, phù hợp với bối cảnh mới để khai thông nguồn lực văn hóa và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
* Vị thế nền tảng tinh thần xã hội và tính tiên phong của văn hóa
Trải mấy nghìn năm, có một thời đất nước đắm chìm trong vòng lệ thuộc tới cả thiên kỷ, mà rút cuộc "Việt Nam rũ bùn đứng dậy sáng loà".
Trong mỗi bước ngoặt của cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng phát huy vai trò của văn hóa để tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc nhằm biến khát vọng thực hiện các mục tiêu chính trị thành hiện thực. Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược trước đây, Đảng ta đã tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và nhân dân để khơi dậy khát vọng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp là tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh"; trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ là "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước"... Tinh thần đó, khát vọng đó đã giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để giành được những chiến thắng mang tầm thời đại.
Rõ ràng, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam, là mục tiêu, là động lực phát triển của lịch sử Việt Nam. Nói cụ thể là, cái nền tảng, cái mục tiêu, cái động lực đối với Việt Nam suốt từ thời cổ đại không phải là gì khác, ấy chính là: nghĩa đồng bào, vì nước quên mình, trừ bạo an dân, tinh thần đoàn kết rộng rãi... Vũ khí tinh thần ấy, vũ khí văn hoá cơ bản nhất ấy được hun đúc và tiếp tục được lưu truyền và ngày càng trở thành hùng khí quật khởi đặc biệt ở vào những bước ngoặt lịch sử dân tộc, để Việt Nam ta ngày càng có vị trí quan trọng trên trường quốc tế.
Đồng hành với lịch sử dân tộc, sự vận động của văn hoá Việt Nam ngày càng sinh động với sự lan toả, thăng hoa rộng lớn, với chiều sâu thẳm tạo dựng nên gương mặt Việt Nam, với trí tuệ, khí phách, cốt cách, phong thái và bản lĩnh Việt Nam không thể trộn lẫn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập toàn cầu. Diễn đạt một cách xác đáng, đó chính là văn hoá với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là "tấm văn cước" dân tộc hội nhập quốc tế đầy thách thức "mất, còn" hiện nay.
Mặt khác, văn hoá còn mang trong nó tính vượt trước hay tính tiên phong so với kinh tế-xã hội. Ở góc nhìn này, chúng ta thấy nổi bật lên những vấn đề về thế giới quan, về chính trị, về khoa học và công nghệ, về giáo dục, về mô thức ứng xử dân tộc... thuộc phạm trù văn hoá tinh thần, xét trong sự vận động tổng thể của toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội đất nước. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi".
Như vậy, có thể khẳng định, văn hoá không chỉ là nền tảng tinh thần mà đồng thời là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, một mục tiêu phát triển của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
Phương Anh (tổng hợp)