Quan hệ Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU) (Cập nhật đến 19/8/2021)

  1. CHÍNH TRỊ

                 Ngày 28/11/1990: Việt Nam và EU chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao[1].

                 Năm 1996: EU mở Phái đoàn Đại diện của Ủy ban châu Âu (EC) tại Hà Nội.

    1. Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) giữa Việt Nam và EU (có hiệu lực từ 01/10/2016):

    • Tháng 5/2008 Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Ngoại giao đàm phán Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) Việt Nam - EU.
    • Ngày 27/6/2012, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh và Đại diện cấp cao của EU về Chính sách đối ngoại và An ninh đã ký chính thức PCA tại Brúc-xen, Bỉ.
    • Ngày 01/11/2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phê chuẩn PCA[2].
    • Ngày 29/9/2016, EU gửi công hàm chính thức thông báo việc hoàn tất phê chuẩn PCA để Hiệp định có hiệu lực.
    • Ngày 01/10/2016, PCA chính thức có hiệu lực, đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam –EU, tạo cơ sở pháp lý đưa hợp tác hai bên sang một giai đoạn mới với phạm vi rộng lớn và mức độ hợp tác sâu sắc hơn.

      2. Trao đổi đoàn cấp cao: Lãnh đạo hai Bên thường xuyên trao đổi đoàn và tiếp xúc bên lề các diễn đàn và hội nghị đa phương (Phụ lục 2).

                3. Cơ chế hợp tác:

      3.1. Ủyban Hỗn hợp Việt Nam – EU:

      Ngày 17/7/1995, Hiệp định khung về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Cộng đồng châu Âu (tiền thân của Liên minh châu Âu) - được gọi tắt là Hiệp định khung 1995 - được ký kết và bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/6/1996. Trong khuôn khổ Hiệp định khung 1995, Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – EC được thành lập, là diễn đàn trao đổi về tình hình thực hiện các chương trình hợp tác giữa Việt Nam và EU. Ủy ban Hỗn hợp họp 2 năm một lần, được đồng chủ trì ở cấp Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Giám đốc điều hành Cơ quan đối ngoại EU (EEAS). Hai bên đã tiến hành 09 cuộc họp. Cuộc họp lần cuối (lần thứ 9) đã diễn ra vào ngày 26/3/2014 tại Hà Nội. Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam - EC bao gồm các Tiểu ban và Tổ Công tác: (i) Tổ công tác về Thương mại và đầu tư; (ii) Tổ công tác về Hợp tác phát triển; (iii) Tiểu ban về Xây dựng Thể chế, Cải cách Hành chính, Quản trị và Nhân quyền; (iv) Tiểu ban về Khoa học và Công nghệ.

      Ngày 19/12/2013, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Ngoại giao là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành thành lập Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – EU, thay thế Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – EC để triển khai PCA sau khi Hiệp định có hiệu lực. Hai bên đã thông qua Quy chế hoạt động của Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – EU và hiện đang tiến hành các thủ tục thành lập Phân ban Việt Nam. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, các phiên họp đầu tiên được tổ chức: Ủy ban Hỗn hợp Việt Nam – EU (10/5/2019), Tiểu ban Phát triển bền vững (15/11/2019); Tiểu ban Chính trị[3] (17/02/2020). Tiểu ban Quản trị tốt, Pháp quyền và Quyền con người (11/2020). Hai bên đã tổ chức Phiên họp lần thứ hai Ủy ban hỗn hợp Việt Nam – EU theo hình thức trực tuyến (12/2020).

      3.2. Cơ chế đối thoại về nhân quyền Việt Nam – EU: Từ tháng 12/2011, cơ chế đối thoại nhân quyền được tiến hành mỗi năm một lần, luân phiên giữa Hà Nội và Brúc-xen (Bỉ). Phiên đối thoại đầu tiên được tổ chức vào tháng 01/2012 tại Hà Nội. Phiên Đối thoại lần thứ 10 diễn ra tháng 02/2020 tại Hà Nội.

        4. Hợp tác trong khuôn khổ đa phương: Việt Nam và EU phối hợp tại các diễn đàn đa phương và tổ chức quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - EU, ASEM và Liên hợp quốc. Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN-EU, Việt Nam và EU đã chính thức nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – EU 23 (12/2020); làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác giữa hai khu vực qua Công cụ Đối thoại Khu vực EU-ASEAN (E-READI), Sáng kiến Trung tâm giảm thiểu rủi ro CBRN, Sáng kiến Viện nghiên cứu EU – ASEAN; thúc đẩy quan hệ kinh tế thông qua Chương trình hỗ trợ hội nhập vùng ASEAN (ARISE+),  đầu tư cơ sở hạ tầng bền vững ACGF , Chương trình hỗ trợ quản trị rừng FLEGT,...và tăng cường phát triển văn hóa – xã hội qua các dự án như hỗ trợ di cư an toàn, hỗ trợ phản hồi, bảo tồn sinh học, ứng phó với các trường hợp khẩn cấp, xây dựng các thành phố xanh và thông minh, ứng phó với dịch bệnh,...

        Hai bên phối hợp chặt chẽ trong ASEM thông qua đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế tăng cường, thúc đẩy và hỗ trợ thực hiện các dự án tiểu vùng Mê Công – Đa-nuýp cũng như mô hình hợp tác giữa các địa phương Việt Nam – EU (như mô hình Bến Tre – Tun-chê-a (Ru-ma-ni), Cần Thơ – Ru-sê (Bun-ga-ri). EU đã tham gia đồng bảo trợ sáng kiến Việt Nam đề xuất tại HNCC ASEM 12 (10/2018) về “Thúc đẩy phát triển bao trùm kinh tế và xã hội ở châu Á và châu Âu”. Hai bên cũng tích cực triển khai hiệu quả gói hỗ trợ “Team Europe” trị giá hơn 800 triệu EUR của EU hỗ trợ ASEAN ngăn chặn sự lây lan Covid-19 và giảm thiểu các tác động tiêu cực của đại dịch; tổ chức 02 cuộc “Đối thoại chuyên gia EU – ASEAN về vắc-xin COVID-19[4]. Thông qua đóng góp của EU và các nước thành viên cho cơ chế COVAX, dự kiến đến cuối năm 2021, ASEAN sẽ nhận được hơn 32 triệu liều vắc-xin. Bên cạnh đó, hai bên phối hợp hợp tác hướng tới thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), hội nhập khu vực và hợp tác giải quyết các vấn đề quốc tế như biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, an ninh năng lượng, chống khủng bố, chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, di cư bất hợp pháp, vấn đề Myanmar....

        II. KINH TẾ

                1. Thương mại:

      Tính đến hết năm 2020, kim ngạch thương mại song phương đạt 55,39 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 40,05 tỷ USD (giảm 3,4% so với cùng kỳ năm 2019) và nhập khẩu từ thị trường EU đạt 15,34 tỷ USD (tăng 2,9% so với cùng kỳ năm ngoái). Hiện EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 (sau Mỹ và Trung Quốc) và là thị trường nhập khẩu lớn thứ 5 (sau Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN và Nhật Bản) của Việt Nam. Việt Nam là đối tác thương mại thứ 17 của EU và xếp thứ 11 trong số các nước xuất khẩu lớn nhất vào EU (trong các nước châu Á, chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ).

      Trong 7 tháng đầu năm 2021, trao đổi thương mại hai chiều với EU đạt 32,2 tỷ USD, trong đó xuất khẩu sang EU đạt 22,5 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm ngoái; nhập khẩu từ EU đạt 9,7 tỷ USD, tăng 19,6% so với cùng kỳ năm ngoái.

      1.1. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA):

    • Ngày 26/6/2012, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và Ủy viên Thương mại EU Ca-ren đơ Gút đã tuyên bố chính thức khởi động đàm phán EVFTA.
    • Ngày 02/12/2015, tại Brúc-xen, trước sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch EC Giăng-Clốt Giăng-cơ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và Ủy viên phụ trách Thương mại EC Xi-xi-li-a Man-xtrôm đã ký Tuyên bố về việc chính thức kết thúc đàm phán EVFTA.
    • Do phát sinh một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền phê chuẩn hiệp định của EU, hai bên đã thống nhất tách EVFTA thành hai Hiệp định riêng biệt:

      -                      Hiệp định thương mại tự do (EVFTA): bao gồm toàn bộ nội dung EVFTA đã đàm phán, nhưng riêng phần đầu tư chỉ bao gồm tự do hóa đầu tư trực tiếp nước ngoài. EU có quyền phê chuẩn Hiệp định FTA này và đưa vào thực thi tạm thời trong thời gian chờ các nước thành viên EU phê chuẩn chính thức.

      -                      Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA): bao gồm nội dung bảo hộ đầu tư và giải quyết tranh chấp đầu tư. Hiệp định này phải được sự phê chuẩn của cả EP và của Nghị viện các nước thành viên mới có thể thực thi.

    • Ngày 17/10/2018, EC đã thông qua việc trình EVFTA lên Hội đồng châu Âu xem xét chấp thuận ký chính thức hiệp định.
    • EVFTA và EVIPA ký chính thức ngày 30/6/2019 tại Hà Nội;
    • Ngày 21/1/2020: Ủy ban Thương mại Quốc tế (INTA) Nghị viện Châu Âu (EP) đã thông qua nghị quyết trình EP phê chuẩn EVFTA với số phiếu 29 phiếu thuận, 6 phiếu chống và 5 phiếu trắng.
    • Ngày 12/2/2020, EVFTA đã được EP thông qua với số phiếu cao 401 phiếu ủng hộ, 192 phiếu chống và 40 phiếu trắng.
    • Ngày 08/6/2020, Quốc hội Việt Nam đã thông qua EVFTA với số phiếu 457/457.
    • Hiện có 8 nước thành viên EU phê chuẩn EVIPA: Hungary (12/2019), Séc (02/2020), Rumani (6/2020), Thụy Điển (9/2020), Latvia (10/2020), Estonia (12/2020), Hy Lạp (2/2021), Lít-va (6/2021).

      Các nội dung chính của EVFTA: Đây là một hiệp định FTA thế hệ mới, có mức độ cam kết rất cao ở nhiều lĩnh vực, lần đầu tiên EU kết thúc đàm phán với một nước đang phát triển ở châu Á. Hiệp định cam kết mở cửa thị trường hàng hóa, Quy tắc xuất xứ, Hải quan và thuận lợi hóa thương mại, Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), Hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, Đầu tư, Phòng vệ thương mại, Cạnh tranh, Doanh nghiệp nhà nước, Mua sắm chính phủ, Sở hữu trí tuệ, Phát triển bình vững, Hợp tác và xây dựng năng lực, Các vấn đề pháp lý.

      Theo cam kết trong EVFTA, trong vòng 7 năm, EU sẽ xóa bỏ 99,2% số dòng thuế đối với các mặt hàng  xuất khẩu của Việt Nam vào EU. Trong vòng 10 năm, Việt Nam sẽ xóa bỏ trên 99% số dòng thuế đối với nhập khẩu từ EU. Đối với thương mại dịch vụ và đầu tư, EU cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam cao hơn mức cam kết trong WTO và tương đương mức cam kết cao nhất của EU trong các FTA gần đây. Cam kết của Việt Nam đối với EU cũng cao hơn trong WTO và ít nhất là ngang bằng với mức mở cửa cao nhất của Việt Nam đối với các đối tác khác.

      Đối với Việt Nam, hưởng lợi nhiều nhất từ EVFTA là những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mà hiện EU vẫn duy trì thuế quan cao như dệt may, giày dép và hàng nông sản. Về nhập khẩu, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn máy móc, thiết bị, công nghệ/kỹ thuật cao từ EU, qua đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Về môi trường kinh doanh, việc thực thi các cam kết trong EVFTA sẽ dẫn đến những cải thiện về thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch, thuận lợi hơn và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.

      1.2. Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP): Tháng 3/2013, EU đã công bố quy chế GSP giai đoạn 2014-2016, theo đó, Việt Nam tiếp tục được hưởng GSP, đặc biệt là nhóm hàng hóa thuộc mục XII (gồm giày dép, ô dù). GSP giảm thuế cho các nước đang phát triển với mức ưu đãi thấp hơn mức thuế Tối huệ quốc 3,5%. 

      1.3. Hiệp định đối tác tự nguyện về Thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT): Sau gần 6 năm với 16 phiên kỹ thuật và 10 phiên cấp cao, ngày 17/11/2016, Việt Nam và EU đã kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác tự nguyện Thực thi lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT), theo đó sản phẩm gỗ của Việt Nam xuất sang thị trường EU sẽ được cấp chứng chỉ xác nhận có nguồn gốc hợp pháp theo tiêu chuẩn của EU mà không cần phải giải trình, tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam. Ngày 11/5/2017, tại Brussels (Bỉ), Việt Nam và EU đã ký tắt văn bản Hiệp định và hai bên hiện đang hoàn tất các vấn đề kỹ thuật để tiến tới ký chính thức. Ngày 19/10/2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã chứng kiến lễ ký VPA/FLEGT tại Brúc-xen (Bỉ) nhân chuyến thăm làm việc của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tại EU.

      Hiệp định VPA/FLEGT được EP thông qua vào ngày 12/3/2019. Hiệp định VPA/FLEGT chính thức được phê chuẩn và có hiệu lực ngày 01/6/2019, là “giấy thông hành” tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu gỗ vào EU.

                2. Đầu tư:

      Tính đến tháng 20/07/2021, có 25 nước EU đầu tư vào Việt Nam với 2.229 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 22,2 tỷ USD, chiếm 5,6% tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam.

      Theo quốc gia đầu tư: Hà Lan là nước đầu tư nhiều nhất với 380 dự án (~10,4 tỷ USD), chiếm 46,56% tổng vốn đầu tư của EU tại Việt Nam; Pháp đứng thứ hai với 632 dự án (~3,6 tỷ USD), chiếm 16,26% tổng vốn đầu tư của EU tại Việt Nam; thứ ba là Đức với 400 dự án (~2,3 tỷ USD), chiếm 10,13% tổng vốn đầu tư của EU tại Việt Nam.

      Theo lĩnh vực đầu tư: Vốn đầu tư tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 607 dự án và 8,4 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 37,94% tổng vốn đầu tư của EU tại Việt Nam; đứng thứ hai là lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa với 28 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 4,8 tỷ USD, chiếm 21,64% tổng vốn đầu tư của EU tại Việt Nam; thứ ba là hoạt động kinh doanh bất động sản với 48 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 8,22% tổng vốn đầu tư.

      Về địa bàn đầu tư: Đầu tư của EU đã có mặt tại 55 tỉnh, thành phố của Việt Nam. Dẫm đầu là Bà Rịa – Vũng Tàu với 33 dự án, tổng vốn 3,8 tỷ USD, chiếm 16,89% tổng vốn đăng ký của EU tại Việt Nam; Đứng thứ hai là thành phố Hồ Chí Minh với 1.014 dự án, tổng vốn đầu tư 3,4 tỷ USD, chiếm 15,37% tổng vốn đăng ký của EU tại Việt Nam; Hà Nội đứng thứ 3 với 468 dự án, tổng vốn đầu tư 3,2 tỷ USD, chiếm 14,53% tổng vốn đăng ký của EU tại Việt Nam. Tiếp theo là các địa phương như Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai,...

      Về đầu tư của Việt Nam sang EU, tính lũy kế đến tháng 7/2021, Việt Nam đã có 113 dự án đầu tư sang các nước EU với tổng vốn đăng ký 494 triệu USD. Đứng đầu là hoạt động bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác với 40 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 152 triệu USD; đứng thứ hai là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 06 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 98 triệu USD; thứ ba là hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm với 02 dự án, tổng vốn đăng ký là 68 triệu USD. Tiếp theo là hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ; nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản,...

      III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

      EU là một trong những nhà tài trợ lớn cho Việt Nam. EU luôn là một trong những nhà tài trợ lớn cho Việt Nam. Trong giai đoạn 1993 – 2013, tổng cam kết ODA của EC và các nước thành viên EU đạt gần 15 tỷ USD, chiếm 20% tổng cam kết của cộng đồng tài trợ quốc tế cho Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại của EU đạt khoảng 1,5 tỷ USD. Ngân sách viện trợ của EC dành cho Việt Nam liên tục tăng từ 140 triệu Euro giai đoạn 1996 – 2001 lên 162 triệu Euro giai đoạn 2002 – 2006 , lên 304 triệu Euro giai đoạn 2007 – 2013 và 400 triệu Euro giai đoạn 2014 – 2020. Hiện nay hai bên đang tham vấn xây dựng Chương trình hợp tác mới với Việt Nam giai đoạn 2021 – 2027, ưu tiên các lĩnh vực quan trọng để đạt mục tiêu phát triển bền vững.

      Nếu trong giai đoạn 2002 – 2006, mục tiêu tài trợ của EU đối với Việt Nam là giảm nghèo bền vững, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực (y tế, giáo dục và đào tạo) thì từ giai đoạn 2007 – 2013, EU đã chuyển hướng, tập trung hỗ trợ Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đàm phán và thực thi các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), xây dựng thể chế và quản trị công. Trong những năm đầu, ODA của EU thực hiện theo các chương trình, dự án đơn lẻ. Bắt đầu từ 2007 – 2013, EU đã chuyển hướng cơ bản trong cách tiếp cận với phương thức chủ đạo là hỗ trợ ngân sách nhằm tăng cường tính chủ động của phía Việt Nam, giảm chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả dử dụng viện trợ tại Việt Nam. Trong Chương trình Hợp tác định hướng của EU với Việt Nam giai đoạn 2014 – 2020, EU cam kết ngân sách viện trợ không hoàn lại cho việt Nam lên tới 400 triệu Euro, tăng 30% so với giai đoạn 2007 – 2013.

                Mục tiêu tài trợ của EU đối với Việt Nam được điều chỉnh theo từng giai đoạn:

                - Giai đoạn 2002 – 2006 là giảm nghèo bền vững, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực (y tế, giáo dục và đào tạo).

                -  Giai đoạn 2007 – 2013 là hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, đàm phán và thực thi các Hiệp định thương mại tự do, xây dựng thể chế và quản trị công. Các chương trình, dự án tiêu biểu trong hợp tác phát triển của EU tại Việt Nam giai đoạn 2007 – 2013 là: Chương trình Hỗ trợ thương mại đa biên giai đoạn 3 – MUTRAP 3, Chương trình Hỗ trợ thương mại và đầu tư giai đoạn 4 – MUTRAP 4, Chương trình Phát triển du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, Hỗ trợ ngân sách ngành y tế, Hiện đại hóa tài chính công.

                - Giai đoạn 2014 – 2020, EU tập trung vào 2 lĩnh vực năng lượng (năng lượng bền vững, năng lượng nông thôn, sử dụng hiệu quả năng lượng) và thể chế/quản trị công.

      Các chương trình/dự án cụ thể đã và đang chuẩn bị thực hiện trong giai đoạn hiện nay: Chương trình Hỗ trợ chính sách phát triển năng lượng và tăng cường tiếp cận năng lượng bền vững tới khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo, trị giá 108 triệu Euro (ký Hiệp định tài chính ngày 01/12/2017); Dự án Hỗ trợ hội nhập khu vực ASEAN – Hỗ trợ liên quan đến thương mại dành cho Việt Nam (ARISE+) (6 triệu Euro, Hiệp định tài chính Dự án ký tháng 12/2018); Chương trình Chuyển đổi Năng lượng Bền vững Việt Nam – EU (dự kiến 121 triệu Euro); Dự án Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (đang đàm phán Hiệp định tài chính 20 triệu Euro).

      Viện trợ nhân đạo: Năm 2020, EU đã cung cấp 60,000 Ơ- rô tiền viện trợ nhân đạo cho người dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đang diễn ra tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (Tây Nam Việt Nam). Khoản tiền có mục đích: (i) giúp đỡ trực tiếp 24,000 người tại những tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề tại khu vực; (ii) hỗ trợ Hội Chữ thập đỏ Việt Nam trong việc cung cấp hỗ trợ nhu yếu phẩm cần thiết cũng như tổ chức các hoạt động cải thiện vệ sinh và chăm sóc sức khỏe dành cho hộ gia đình chịu ảnh hưởng lớn do thiếu nước sạch.

      IV. HỢP TÁC TRONG CÁC LĨNH VỰC KHÁC

      1. Y tế:

        Trong những năm qua, EU đã viện trợ cho Việt Nam nhiều chương trình, dự án để tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ y tế, hỗ trợ nâng cao năng lực xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện các chính sách, chiến lược, kế hoạch y tế ở cấp quốc gia và tại địa phương như: Dự án Hỗ trợ phát triển hệ thống y tế (HSDP), Dự án Chăm sóc sức khỏe người nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên (HEMA), Dự án nâng cao năng lực ngành y tế (HSCSP),…

        Trong giai đoạn 2010-2014, Việt Nam đã tiếp nhận triển khai Chương trình Hỗ trợ chính sách ngành y tế, giai đoạn 1 với tổng ngân sách 39,5 triệu Ơ-rô. Với mục tiêu tiếp tục hỗ trợ phát triển hệ thống chăm sóc y tế của Việt Nam theo hướng công bằng, hiệu quả, phát triển hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, trên cơ sở kết quả bước đầu của Chương trình hỗ trợ chính sách ngành y tế giai đoạn 1, EU đã quyết định hỗ trợ giai đoạn 2 (2015-2019) với tổng kinh phí 115 triệu Ơ-rô, là chương trình hỗ trợ ngân sách ngành y tế lớn nhất của EU tại châu Á.

      2. Giao thông vận tải:

        Ngân hàng Đầu tư châu Âu (ECB) cung cấp cho Việt Nam khoản vay trị giá 150 triệu ơ-rô để thực hiện dự án Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh – tuyến số 2, có hiệu lực đến ngày 06/12/2015. Ngày 28/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1286/QĐ-TTg về việc gia hạn thời gian thực hiện dự án trên, trong đó đồng ý gia hạn thời gian thực hiện Dự án vay vốn từ các ngân hàng là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư châu Âu (ECB) và Ngân hàng tái thiết Đức (KfW) đến ngày 13/12/2020.

        Tháng 01/2018, Ngân hàng Đầu tư châu Âu (EIB) cam kết cung cấp 143 triệu ơ-rô để xây dựng tuyến đường sắt đô thị số 3 tại Hà Nội và mua sắm tàu điện mới cho tuyền đường này.

      3. Nông nghiệp:

        Ngày 25/10/2017, EC chính thức đưa ra cảnh báo thẻ vàng đối với Việt Nam do các nỗ lực của Việt Nam chưa đủ để ngăn chặn nạn đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU fishing). EC đã tổ chức hai đoàn thanh tra đến Việt Nam (5/2018 và 11/2019) để xem xét các hoạt động chống khai thác hải sản bất hợp pháp của Việt Nam. Hai bên cũng đã tổ chức họp trực tuyến (6/2020 và 10/2020) để trao đổi, cập nhật tình hình triển khai các biện pháp chống khai thác IUU theo khuyến nghị của EC. Đến nay, EU vẫn chưa xem xét gỡ bỏ thẻ vàng đối với hải sản Việt Nam.

      4. Tư pháp:

        Dự án Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam (EU JULE, 2016-2020): dự án có mục tiêu tăng cường xây dựng pháp quyền thông qua hệ thống tư pháp tin cậy và dễ dàng tiếp cận hơn. Dự án dự kiến được thực hiện trong 5 năm kể từ ngày thỏa thuận tài trợ có hiệu lực. Tổng kinh phí dự kiến: 15,6 triệu Ơ-rô, (EU đóng góp 14 triệu Ơ-rô; UN: 500.000 Ơ-rô; Chính phủViệt Nam: 1.4 triệu Ơ-rô). Ngày 02/12/2015, nhân dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm làm việc tại EU, hai bên đã ký Hiệp định tài chính của Dự án. Sau quá trình đàm phán giữa Nhóm công tác liên ngành Việt Nam (Bộ Tư pháp chủ trì) với EU, hai bên đã khởi động Dự án ngày 12/10/2018 tại Hà Nội.

        5. Quốc phòng:

        Ngày 17/10/2019, Việt Nam và EU đã ký kết Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA) và Hiệp định bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/5/2020. Hai bên đã tổ chức phiên thứ hai Đối thoại Quốc phòng – An ninh Việt Nam – EU (12/2020).

        6. Khoa học công nghệ:

        Hợp tác Khoa học – Công nghệ Việt Nam – EU được triển khai trên cơ sở Hiệp định hợp tác và đối tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) ký kết năm 2012, có hiệu lực từ tháng 10/2016. Thời gian qua, Việt Nam đã phối hợp với Hiệp hội Mạng nghiên cứu và đào tạo châu Âu GÉANT triển khai Dự án Mạng thông tin Á – Âu (TEIN/Asi@Connect-Trans-Eurasia Information Network); giúp phát triển Mạng Nghiên cứu và Đào tạo Việt Nam (VinaREN), nâng cao hiệu quả hợp tác nghiên cứu và đào tạo giữa Việt Nam với các quốc gia thành viên EU.

        Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Việt Nam cam kết bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý của EU và ngược lại, EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Việt Nam đang tích cực thúc đẩy hợp tác với Cơ quan Sáng chế châu Âu (EPO), Cơ quan Sở hữu trí tuệ châu Âu (EUIPO).

        Trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật trong thương mại, hai bên xúc tiến triển khai các cam kết trong Hiệp định EVFTA về thừa nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp và thuận lợi hóa thương mại thông qua xây dựng, tăng cường các sáng kiến hợp tác về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp.

        Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân: EU hỗ trợ Việt Nam triển khai 02 dự án hỗ trợ kỹ thuật về tăng cường năng lực cho cơ quan pháp quy hạt nhân của Việt Nam (2012 – 2015) và nâng cao hiệu quả hoạt động Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (2016 – 2019); góp phần nâng cao năng lực cho Việt Nam về an toàn bức xạ và hạt nhân, quan trắc phóng xạ môi trường và ứng phó sự cố; đồng thời, giúp Việt Nam hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về an toàn lò phản ứng hạt nhân; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử 2008.  

        Việt Nam cũng tích cực triển khai các sáng kiến: Thiết lập Trung tâm hợp tác phóng xạ và hạt nhân (CBRN); Dự án EC hợp tác với Mạng lưới ASEANTOM về quan trắc cảnh báo sớm (EWWRMN). Qua đó đã cử chuyên gia Việt Nam tham gia các chương trình đào tạo ở các nước châu Âu có nền công nghiệp hạt nhân tiên tiến; giúp xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ Kế hoạch hành động quốc gia về phòng ngừa, phát hiện và ứng phó nguy cơ, sự cố hóa học, sinh học, bức xạ và hạt nhân giai đoạn đến 2025.

        Trong khuôn khổ sáng kiến Đối thoại EU-ASEAN về việc lập bản đồ đổi mới và công nghệ xanh, Việt Nam tích cực tham gia dự án “Từ các công nghệ xanh đổi mới đến các giải pháp sẵn sàng kinh doanh điện tử” nhằm chuyển giao công nghệ Xanh EU sang sử dụng tại các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam và thúc đẩy sự hợp tác EU - ASEAN, qua đó giúp Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ trong lĩnh vực sản xuất bền vững và năng lực nghiên cứu, liên quan đến COVID-19 như sản xuất khẩu trang, chuẩn đoán nhanh, sản xuất vắc-xin…. Đáng chú ý, về hợp phần xử lý rác thải, dự án đã này đã phân tích chuỗi giá trị, tìm hiểu nhu cầu để triển khai công nghệ mới, lập bản đồ các bước thực hiện và xây dựng nội dung cho chuỗi hội thảo trên mạng với các chuyên gia EU, AMS, Phillipines và các bên liên quan. Về hợp phần sản xuất bền vững: in 3D với công nghệ CNC cho hộp số, chế biến thực phẩm, nhựa sinh học, tái chế pin mặt trời, đồng thời tìm kiếm các đối tác EU sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho Việt Nam thuộc những lĩnh vực này.

        Việt Nam cũng tích cực tham gia Chương trình đồng tài trợ cho nghiên cứu và đổi mới sáng tạo SEA – EU JFD. Chương trình kêu gọi các đề xuất dự án nghiên cứu chung giữa các quốc gia Đông Nam Á và châu Âu được cam kết tại Đối thoại ASEAN – EU về Khoa học và Công nghệ lần thứ 8 tại Phillipines năm 2019; qua đó, tích cực tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ với các đồng nghiệp trong khu vực ASEAN và EU. Việt Nam tích cực tham gia Dự án ARISE+IPR của EU hỗ trợ khu vực ASEAN, phối hợp xuất bản tài liệu “Chỉ dẫn địa lý khu vực ASEAN” và Dự án “Hỗ trợ ASEAN hội nhập thị trường EU” giai đoạn 2 (ARISE Plus).

        7. Giáo dục và Đào tạo: 

        Việt Nam và EU đã thành công hợp tác tổ chức các hội nghị, hội thảo như: Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Á - Âu (2009); Các Diễn đàn Á - Âu về học tập suốt đời (2009, 2010 và 2018); Diễn đàn Giáo dục Đại học châu Âu tại Hà Nội (11/2014); Diễn đàn Á - Âu về mối quan hệ nhà trường doanh nghiệp (2015). Năm 2014, Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân đã tặng Bằng Tiến sỹ danh dự cho ngài Ma-nu-en Ba-rô-sô, Chủ tịch EC.

        Việt Nam đã cùng EU thực hiện 02 Dự án xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế với Đức (Trường Đại học Việt Đức) và Pháp (Trường Đại học Công nghệ Hà Nội).

        Tháng 6/2017, tại TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam đã phối hợp với EU triển khai tổ chức Hội thảo về giới thiệu chương trình học bổng Erasmus Mundus đào tạo thạc sỹ và tiến sĩ dành cho giảng viên các trường đại học. EU cũng cung cấp nhiều dự án nghiên cứu phối hợp với sự tham gia của nhiều trường đại học hàng đầu của Việt Nam trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu mang tên nhà nữ bác học, người hai lần giải thưởng Nobel Marie Skłodowska-Curie.    

        Hiện nay một số nước EU như Pháp và Bỉ và các trường đại học thành viên tham gia vào Trung tâm Pháp-Việt đào tạo về Quản lý (CFVG) đang hoàn thiện và trình đề án thành lập Trường Đại học Quản lý Châu Âu (European Management University – ERU) tại Việt Nam.

        EU và Việt Nam hiện đang có một số hoạt động/dự án hợp tác gồm: Dự án “Nâng cao khả năng làm việc cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam” trong khuôn khổ chương trình Eramus Plus của Cộng đồng châu Âu; dự án MARCO POLO về nâng cao năng lực hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu tại các trường Đại học khu vực ASEAN - cụ thể tại Việt Nam, Malaysia và Thái Lan, tổng kinh phí dự án là 67.015 EUR cho giai đoạn từ năm 2016 đến 2019; Dự án VOYAGE được Cộng đồng châu Âu tài trợ kinh phí là 505.164 EUR và hoạt động trong 3 năm từ tháng 10/2015-tháng 10/2018. Học viện CNBCVT đã được lựa chọn là một trong số các cơ quan triển khai dự án và được phân bổ 60.105 EUR để thực hiện các hoạt động liên quan.Ngoài ra, còn có một dự án lớn về đào tạo báo chí do Châu Âu tài trợ cho Việt Nam là Dự án "Hỗ trợ Trung tâm bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ báo chí" do Thụy Điển thực hiện (2010-2013).

        8. Lao động:

        Kể từ năm 2016, hợp tác với EU chủ yếu xuất phát từ khuôn khổ Đối thoại Nhân quyền, Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) và Hiệp định EVFTA và tập trung vào 02 nội dung gồm nghiên cứu phê chuẩn các Công ước ILO và hỗ trợ nạn nhân buôn bán người.

        (i) Về nghiên cứu phê chuẩn các Công ước ILO, ta đã hợp tác với EU thông qua ILO để thực hiện dự án “Thúc đẩy quá trình Việt Nam xem xét gia nhập và thực hiện các Công ước của ILO” giai đoạn 2016-2018 và dự án “Thương mại cho Việc làm thỏa đáng” (Trade for Decent Work) giai đoạn 2019-2021. Hai dự án này được thiết kế và thực hiện trong bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định FTA thế hệ mới bao gồm EVFTA. Hai dự án này phù hợp với chủ trương của ta về việc gia nhập các công ước cơ bản và kỹ thuật của ILO, góp phần thúc đẩy nội dung hợp tác về lao động của Việt Nam và EU trong hai Hiệp định PCA và EVFTA.

        (ii) Về hỗ trợ nạn nhân buôn bán người: Tại Đối thoại Nhân quyền (2016), EU bày tỏ quan tâm sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực hỗ trợ nạn nhân buôn bán người. Tháng 11/2018, hai bên đã thống nhất Điều khoản tham chiếu và chọn chuyên gia hỗ trợ một số hoạt động về hướng dẫn chuyển tuyến hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán người và đánh giá hoạt động của đường dây nóng quốc gia về tư vấn và hỗ trợ nạn nhân buôn người (đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên). Tháng 10/2019, Bộ LĐTBXH đã phối hợp với Phái đoàn EU tại Việt Nam tổ chức Hội thảo về tăng cường tiếp nhận, xác minh, chuyển tuyến, bảo vệ và hỗ trợ các nạn nhân của nạn mua bán người. Trong giai đoạn 2020 – 2021, do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên không có hoạt động hợp tác. Dự kiến, hỗ trợ nạn nhân buôn bán người tiếp tục là một trong những ưu tiên hợp tác giữa hai bên trong gian đoạn 2022 - 2027.

        (iii) Trong khuôn khổ EVFTA, tháng 02/2021, Bộ LDTBXH đã phối hợp với EU tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm thành lập và vận hành thiết chế Nhóm Tư vấn trong nước (DAG) trong các Hiệp định FTA của EU” nhằm tìm hiểu thông tin, kinh nghiệm về việc thành lập và vận hành DAG ở các FTA mà EU đã và đang thực hiện, phục vụ việc thực hiện cam kết tại Chương 13 Hiệp định EVFTA.

        9. COVID-19

        Tính đến tháng 6/2021, EU đã cam kết cung cấp cho Việt Nam 4,1 triệu liều vắc-xin thông qua cơ chế Covax và đang có kế hoạch tăng cường hỗ trợ các nước đối tác về vắc-xin. Tháng 7/2020, EU công bố gói hỗ trợ “Team Europe” trị giá 800 triệu Euro hỗ trợ ASEAN ứng phó với đại dịch COVID-19 và hỗ trợ phục hồi. Tại AEMM-23 (12/2020), EU công bố Chương trình hỗ trợ các nước Đông Nam Á sẵn sàng ứng phó đại dịch trị giá 20 triệu Euro nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực y tế điều phối, ứng phó dịch bệnh tại khu vực.

 

PHỤ LỤC  1
Các mốc lớn trong quan hệ Việt Nam - EU

 

1990: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

1992: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký Hiệp định dệt may.

1995: Việt Nam và Cộng đồng châu Âu ký Hiệp định Khung Hợp tác Việt Nam - Ủy ban Châu Âu.

1996: EC thành lập Phái đoàn Đại diện thường trực tại Việt Nam.

1997: Việt Nam tham gia Hiệp định hợp tác ASEAN - EU.

2003: Việt Nam và EU chính thức tiến hành đối thoại nhân quyền.

2004: Hội nghị cấp cao Việt Nam - EU lần đầu tiên tại Hà Nội.

2005: Việt Nam thông qua Đề án tổng thể và Chương trình hành động đến 2010 và định hướng tới 2015 về quan hệ Việt Nam - EU.

2010: Ký tắt PCA Việt Nam - EU.

2012: Ký chính thức PCA Việt Nam - EU và khởi động đàm phán EVFTA.

2015: Ký Tuyên bố chính thức kết thúc đàm phán EVFTA.

2016: PCA bắt đầu có hiệu lực (từ 01/10/2016).

2019: Hiệp định đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) bắt đầu có hiệu lực 01/6/2019.

2019: Ký chính thức Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA).

2019: Ký chính thức Hiệp định về thiết lập khuôn khổ tham gia của Việt Nam vào các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA), chính thức có hiệu lực từ 01/6/2020.

2020: Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ 01/8/2020.

 

PHỤ LỤC 2
Các chuyến thăm cấp cao

Về phía Việt Nam:

7/1993: Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt thăm Cộng đồng châu Âu

2/1995: Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh thăm EP 

1/1996: Phó Thủ tướng Trần Đức Lương thăm Cộng đồng châu Âu

4/1998: Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải thăm Cộng đồng châu Âu

9/2002: Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải thăm Cộng đồng châu Âu

3/2004: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm Cộng đồng châu Âu

3/2005: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm EP

9/2006: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm Cộng đồng châu Âu

4/2010: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gặp Chủ tịch Hội đồng châu Âu bên lề Hội nghị Thượng đỉnh an ninh hạt nhân tại Oa-sinh-tơn (Mỹ)

10/2010: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm EU 

7/2010: Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng thăm EP

6/2011: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm gặp Đại diện cấp cao EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh Ca-tơ-rin Át-xtơn bên lề Hội nghị FMM 10 (Hung-ga-ri)

12/2011: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm EP

3/2012: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gặp Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Hơ-man Van Rôm-pơi và Chủ tịch EC Ma-u-en Ba-rô-sô bên lề Hội nghị Thượng đỉnh an ninh hạt nhân tại Xê-un (Hàn Quốc)

4/2012: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh Ca-tơ-rin Át-xtơn bên lề Hội nghị AEMM19 (Bru-nây).

6/2012: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh thăm EU và ký chính thức Hiệp định PCA Việt Nam - EU.

1/2013: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức EU

9/2013: Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải thăm và làm việc với EU

1/2014: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Đại diện cấp cao của EU, bà Ca-tơ-rin Át-xtơn bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới, tại Đa-vốt (Thụy Sỹ).

10/2014: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức EU

8/2015: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh Phê-đê-ri-ca Mô-ghê-ri-ni bên lề Hội nghị AMM 48 (Ma-lay-xia).

9/2015: Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh thăm EU.

12/2015: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng thăm làm việc tại EU.

05/2016: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp song phương Chủ tịch Hội đồng châu Âu Đô-nan Tút-xcơ và Chủ tịch EC Giăng-Clốt Giăng-cơ bên lề Hội nghị G7 mở rộng (Nhật Bản)

06/2016: Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu thăm EP, hội kiến với Phó Chủ tịch EP Di-mi-tri-ốt Pa-pa-đi-mu-lít.

07/2016: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp song phương Chủ tịch EC Giăng-Clốt Giăng-cơ bên lề Hội nghị ASEM11 (Mông Cổ).

07/2016: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Đại diện cấp cao của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh Phê-đê-ri-ca Mô-ghê-ri-ni bên lề Hội nghị ASEM11 (Mông Cổ).

07/2017 : Thủ tướng Chính Phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp song phương Chủ tịch Hội đồng châu Âu Đô-nan Tút-xcơ và Chủ tịch EC Giăng-Clốt Giăng-cơ bên lề Hội nghị G20 (Đức).

08/2017 : Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp song phương Đại diện cấp cao về Chính sách đối ngoại và An ninh Phê-đê-ri-ca Mô-ghê-ri-ni bên lề Hội nghị AMM50 (Phi-líp-pin).

09/2017 : Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ thăm làm việc tại Liên minh châu Âu.

11/2017 : Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp Chủ tịch Hội đồng châu Âu Donald Tusk bên lề Hội nghị cấp cao ASEAN 31 (Ma-ni-la).

11/2017 : Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh gặp song phương Đại diện cấp cao của EU về Chính sách đối ngoại và An ninh Federica Mogherini bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEM lần thứ 13 – FMM13 (Nay Pyi Taw).

01/2018: Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ gặp Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmstrom bên lề Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF (01/2018).

03/2018: Đoàn Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường thăm EU.

08/2018 : Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp song phương Đại diện cấp cao về Chính sách đối ngoại và An ninh Phê-đê-ri-ca Mô-ghê-ri-ni bên lề Hội nghị AMM51 (Singapore).

10/2018 : Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm làm việc tại EU.

04/2019: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm làm việc tại EU.

06/2019 : Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung thăm làm việc tại EU

06/2019 : Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh thăm làm việc tại EU

9/2019 : Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình thăm EU và dự Diễn đàn Kết nối Á-Âu do Hội đồng Châu Âu tổ chức.

10/2019: Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch thăm EU, ký Hiệp định khung về việc Việt Nam tham gia các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA).

12/2019: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp song phương Đại diện cấp cao về Chính sách đối ngoại và An ninh Giô-xép Bô-ren bên lề Hội nghị ASEM FMM14 (Madrid).

Về phía EU:

7/1994: Ủy viên EC phụ trách đối ngoại Han Van Đen Brốc thăm Việt Nam.

9/1995: Phó Chủ tịch EC Ma-nu-en Ma-rin thăm Việt Nam.

1/2004: Ủy viên EC phụ trách An toàn thực phẩm, Y tế công cộng và Bảo vệ người tiêu dùng Đa-vít Bơn thăm Việt Nam.

7/2004: Đặc phái viên của EU phụ trách về vấn đề ASEM Han-Van-Đen Brốc thăm làm việc tại Việt Nam.

10/2004: Chủ tịch EC Rô-ma-nô Pờ-rô-đi và Ủy viên thương mại EC Pa-xơ-can La-mi  thăm làm việc tại Việt Nam. 

4/2005: Ủy viên EC phụ trách thương mại Pi-tơ Man-đen-xơn thăm làm việc tại Việt Nam.

10/2005: Tổng Vụ trưởng đối ngoại EC E-nếch-cô Lan-đa-bu-ru thăm Việt Nam.

11/2005: Ủy viên EC phụ trách An toàn thực phẩm, Y tế công cộng và Bảo vệ người tiêu dùng M. Ci-pra-nôi thăm Việt Nam.

4/2006: Ủy viên EC phụ trách đối ngoại Ben-nít-ta Phe-re-rô Ôn-nê thăm Việt Nam.

5/2006: Chủ tịch Uỷ ban tự do dân sự, tư pháp và nội vụ kiêm Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ EP quan hệ với ASEAN và các nước Đông Nam Á ông Ham-mút Na-xa-ơ thăm Việt Nam.

11/2007: Chủ tịch EC Hô-sê Man-nu-en Ba-rô-sô thăm chính thức Việt Nam (chuyến thăm chính thức đầu tiên của Chủ tịch EC kể từ khi hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao).

5/2009: Uỷ viên EC phụ trách đối ngoại Ben-nít-ta Phe-re-rô Ôn-nê hội kiến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

2/2010: Ủy viên EC phụ trách thương mại Ca-ren đơ Gút thăm làm việc Việt Nam.

3/2010: Đoàn các Nghị sỹ EP thăm Việt Nam.

2/2012: Giám đốc Cơ quan Đối ngoại EU Đa-vít Ô-xu-li-van đến Việt Nam sang Việt Nam dự Tham vấn Chính trị cấp Thứ trưởng Việt Nam – EU lần thứ nhất.

3/2012: Ủy viên EC phụ trách hợp tác phát triển An-dri Pi-en-bát-dơ dự Hội nghị thường niên khu vực Châu Á - TBD của EU về chính sách ODA và được Chủ tịch nước và Phó Thủ tướng ta tiếp.  

10/2012: Chủ tịch Hội đồng châu Âu Hơ-man Van Rôm-pơi thăm chính thức Việt Nam theo lời mời của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

3/2013: Ủy viên EC phụ trách thương mại Ca-ren Đơ Gút thăm Việt Nam và được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp.

10/2013: Phó Chủ tịch EC phụ trách công nghiệp và doanh nghiệp An-tô-ni-ô Ta-gia-ni thăm Việt Nam; tiếp kiến Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

3/2014: Ủy viên EC phụ trách thương mại Ca-ren Đơ Gút thăm Việt Nam.

3/ 2014: Giám đốc Cơ quan Đối ngoại EU Đa-vít Ô-xu-li-van đến Việt Nam đồng chủ trì Tham vấn Chính trị cấp Thứ trưởng Việt Nam – EU lần 3 và UBHH Việt Nam - EU lần thứ 9.

8/2014: Đại diện cấp của EU về Chính sách Đối ngoại và An ninh, Phó Chủ tịch EC bà Cát-tơ-rin Át-xtơn thăm chính thức Việt Nam.

8/2014: Chủ tịch EC Hô-sê Ma-nu-en Ba-rô-sô thăm chính thức Việt Nam lần thứ 2.

3/2015: Phó Chủ tịch EP Đi-mi-tri-ốt Pa-pa-đi-mu-lít thăm Việt Nam nhân dịp dự Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU) lần thứ 132.

4/2015: Chủ tịch INTA của EP Bơn Lang-gơ thăm Việt Nam.

11/2015: Ủy viên EC phụ trách Hợp tác quốc tế và Phát triển Ni-ven Mi-mi-ca thăm Việt Nam.

11/2015: Nhóm Nghị sĩ EP có quan hệ với ASEAN và các nước Đông Nam Á thăm Việt Nam.

11/2016: Ủy viên EC phụ trách Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phin Hô-gan dẫn đầu đoàn 41 doanh nghiệp châu Âu thăm Việt Nam; tiếp kiến Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc.

11/2016: Ủy viên EC phụ trách Môi trường, Hàng hải và Nghề cá Ka-me-nu Ve-la thăm Việt Nam, kết hợp dự Hội nghị Quốc tế lần thứ ba về “Chống buôn bán trái pháp luật động vật hoang dã”; tiếp kiến Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng.

9/2017: Chủ tịch INTA của EP Bơn Lang-gơ thăm Việt Nam, tham dự Hội thảo về Lao động, việc làm và phát triển bền vững theo Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội chủ trì.

12/2017 : Chủ tịch Nhóm Liên minh các đảng Cải cách và Bảo thủ châu Âu (ACRE), đồng thời là Phó Chủ tịch INTA của EP thăm Việt Nam.

12/2017 : Đoàn Chủ tịch Ủy ban Quân sự EU Tướng Mikhail Kostarakos thăm Việt Nam.

01/2018: Đoàn Phó Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư châu Âu Jonathan Taylor thăm Việt Nam.

02/2018: Tổng Vụ trưởng Hợp tác Phát triển của EC Stefano Manservisi và Tổng Vụ trưởng châu Á và Thái Bình Dương của Cơ quan Đối ngoại và An ninh châu Âu Gunnar Wiegand thăm Việt Nam.

05/2018: Đoàn công tác của Tổng vụ Các vấn đề Biển và Thủy sản (DG-MARE) của EC thăm làm việc tại Việt Nam.

07/2018: Chủ tịch INTA thuộc EP thăm Việt Nam.

12/2018: Đoàn Cục Trưởng Cục Cục Quản lý Khủng hoảng và Kế hoạch thuộc Cơ quan Đối ngoại châu Âu thăm làm việc tại Việt Nam.

1/2019 : Phó Chủ tịch EP Heidi Hautala thăm Việt Nam.

4/2019: Phó Tổng Thư ký Cơ quan Đối ngoại Châu Âu thăm Việt Nam.

6/2019 : Cao ủy Thương mại EU Cecilia Malmtrom thăm Việt Nam và ký chính thức EVFTA và EVIPA.

8/2019 : Phó Chủ tịch EC/Đại diện Cấp cao EU về Chính sách đối ngoại và An ninh Federica Mogherini.

10/2019: Chủ tịch Uỷ ban Thương mại quốc tế của EP Lange Bernd thăm làm việc Việt Nam.


[1] Ngày 12/6/1992, Nghị viện châu Âu ra nghị quyết tăng cường quan hệ giữa EU với 3 nước Đông Dương, đưa ra các biện pháp thúc đẩy quan hệ mọi mặt với Việt Nam.

[2] Quyết định số 2075/2013/QĐ-CTN

[3] Trước khi Tiểu ban Các vấn đề chính trị trong khuôn khổ Ủy ban hỗn hợp triển khai Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam – EU (PCA) được hình thành, Việt Nam và EU thỏa thuận tổ chức Tham vấn chính trị cấp Thứ trưởng Ngoại giao hàng năm, luân phiên tại Hà Nội và Brúc-xen (Bỉ) trong giai đoạn 2012-2015. Nội dung trao đổi tập trung vào ba nội dung chính: (1) quan hệ song phương; (2) các vấn đề toàn cầu và (3) tình hình khu vực.

[4] Lần thứ nhất vào ngày 8/12/2021; lần thứ hai vào ngày 31/5/2021.

 

[Nguồn: Bộ Ngoại giao]