Tháng 42023

Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4): Văn hóa các dân tộc Việt Nam - nguồn lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Việt Nam là một cộng đồng văn hoá rộng lớn, đây là di sản quý, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống nhất của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc. Do đó, Đảng và Nhà nước ta xác định việc giữ gìn bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc, trong đó có văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa quan trọng.

* Việt Nam là một cộng đồng văn hoá rộng lớn

Theo các tài liệu sử học, Việt Nam là một cộng đồng văn hoá rộng lớn hình thành khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỷ này. Trong suốt chiều dài lịch sử hơn 400 năm tiếp biến văn hóa Việt Nam với phương Tây dưới nhiều hình thức, nhưng văn hóa Việt Nam vẫn vừa giữ được bản sắc dân tộc, vừa hiện đại hóa.

Văn hóa Việt Nam có những nét mang tính đặc trưng phổ biển của văn hóa nói chung và có những đặc trưng riêng biệt, đặc thù. Những đặc trưng cơ bản riêng biệt này được hình thành, đúc kết, bảo lưu, phát triển từ điều kiện địa lý tự nhiên, lịch sử, chính trị-kinh tế-xã hội của Việt Nam. Các đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam là: lòng yêu nước; tinh thần dân tộc; lòng nhân ái, thương người; tính cộng đồng làng xã, xã hội… Đặc biệt, nền văn hoá rộng lớn của dân tộc Việt Nam được tạo nên bởi 54 dân tộc anh em đoàn kết, gắn bó với nhau. Đó là một nền văn hóa đa dạng, phong phú, là một tài sản vô cùng quý giá của dân tộc ta.

Văn hóa các dân Việt Nam vừa thống nhất vừa đa dạng. Tính thống nhất biểu hiện ở quá trình đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, phát triển kinh tế, mở mang bờ cõi; ở ý thức quốc gia và trong lối sống, cách ứng xử, đặc biệt là tinh thần yêu nước của các dân tộc. Còn tính đa dạng thể hiện ở chỗ mỗi dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam đều mang một bản sắc riêng thể hiện qua văn hoá ẩm thực, nhà ở, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo, tổ chức xã hội, văn học nghệ thuật, trang phục... Đó là những dấu hiệu để nhận biết nhau, giúp hiểu biết về nhau. Trong đó trang phục truyền thống là một biểu trưng văn hoá phản ánh sinh động phong tục, tập quán, vẻ đẹp và bản sắc riêng của mỗi dân tộc trên mỗi vùng miền đất nước. Trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam gắn liền cùng quá trình dài lao động, sáng tạo chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử của từng tộc người.

Trong các vùng văn hóa không thể không kể đến không gian văn hoá rộng lớn trải dài khắp đất nước của những lễ hội truyền thống, được tổ chức hàng năm tại mỗi ngôi làng, nhằm tưởng nhớ tới các vị anh hùng có công với đất nước, với làng xã, biểu đạt sâu sắc tinh thần gắn kết cộng đồng, đời sống, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa của mỗi ngôi làng Việt. Theo thống kê, nước ta có hơn 6.000 lễ hội dân gian, lưu giữ nhiều tầng lớp văn hóa tín ngưỡng, ẩn chứa hệ tư tưởng đạo lý và triết học. Trong số đó có các lễ hội tiêu biểu, như: Hội Gióng, Lễ hội Đống Đa, Lễ hội Cổ Loa, Hội Chùa Thầy, hội Thổi cơm thi làng Thi Cấm… Nội dung các lễ hội thường gắn với tục thờ cúng vị thành hoàng làng, quá trình thực hiện nghi lễ và các hoạt động vui chơi, giúp người dân gắn bó với nhau về tinh thần, có trách nhiệm với cộng đồng. Nhiều lễ hội phản ánh tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng thời phản ánh đậm nét vai trò của nhân dân - những người sáng tạo, kế thừa và trao truyền các sáng tạo văn hóa vật thể, phi vật thể, chủ nhân chân chính của loại hình di sản này.

Có thể khẳng định, văn hóa Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng sắc thái văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc. Tính thống nhất không triệt tiêu tính đa dạng, mà là cơ sở để tính đa dạng được thể hiện phong phú hơn, có môi trường bộc lộ tốt hơn thông qua giao thoa văn hóa, sự học hỏi và tiếp thu lẫn nhau giữa các dân tộc. 

* Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc

Đảng, Nhà nước ta xác định văn hóa của đồng bào dân tộc là di sản quý báu, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng và thống nhất của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc, đặc biệt là văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa quan trọng.

Hằng năm, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức các hoạt động chào mừng Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam từ trung ương đến địa phương; khảo sát và mở các lớp truyền dạy văn hóa truyền thống phi vật thể, các nghề thủ công truyền thống của các dân tộc rất ít người, như Bố Y, Pu Péo, Ơđu, Brâu, Rơmăm, Mảng, Cống, Lô Lô, Chứt, Si La… do chính các nghệ nhân truyền dạy cho thế hệ trẻ. Thông qua các hoạt động này góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo thống kê của Ủy ban Dân tộc, hiện đã có 3 bảo tàng trung ương và 65 bảo tàng cấp tỉnh thực hiện sưu tầm, kiểm kê, trưng bày di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Giai đoạn 2016-2018, có 4 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di tích lịch sử-văn hóa danh lam thắng cảnh liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số được xếp hạng di tích quốc gia. Sau 2 đợt xét tặng (năm 2015 và năm 2019), đã có 559 nghệ nhân là người dân tộc thiểu số được Chủ tịch nước phong tặng, truy tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước. Ngoài ra, các địa phương đã tiến hành phục dựng nhiều lễ hội văn hóa đặc sắc, lập hồ sơ, trình Nhà nước công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Nhiều cuốn sách về bảo tồn giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số được các nhà nghiên cứu xuất bản, lưu giữ… góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa Việt Nam.

Đến nay, đã có hơn 80 lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hỗ trợ các địa phương tổ chức phục dựng, bảo tồn và phát triển đúng mục đích, phù hợp với từng dân tộc; hơn 30 làng, bản, buôn truyền thống của 25 dân tộc thuộc các tỉnh đại diện cho các vùng, miền trên cả nước được hỗ trợ đầu tư bảo tồn, gắn phát triển du lịch với khai thác, phát huy giá trị bản sắc văn hóa; từ đó, nhân rộng, phát triển để xây dựng các làng văn hóa-du lịch, điểm văn hóa-du lịch, tạo đà chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh xóa đói, giảm nghèo.

Ngoài ra, việc phát huy giá trị văn hóa các dân tộc gắn với du lịch càng ngày càng thể hiện những ưu thế riêng. Cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ kết hợp với đời sống văn hóa phong phú và những món ăn đặc sắc, đậm hương vị vùng miền của đồng bào dân tộc thiểu số chính là những lợi thế để phát triển mô hình du lịch cộng đồng. Việc phát triển du lịch từ chính vốn di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số đã phát huy hiệu quả, nhất là mô hình du lịch cộng đồng (homestay) ở các bản, buôn làng. Mô hình này thu hút nhiều du khách, đặc biệt là khách quốc tế đến trải nghiệm, cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với người dân bản địa. Qua đó, người dân có thêm nhiều cơ hội thoát nghèo, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và đặc biệt là có điều kiện phát huy các giá trị văn hóa bản địa.

Những năm gần đây, các phương tiện truyền thông xã hội đã phát triển mạnh mẽ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, thông qua đó đã hình thành nhiều trang, nhóm tuyên truyền, quảng bá về phong tục, tập quán, ẩm thực, lễ hội, di sản văn hóa, văn nghệ của các dân tộc trên mọi miền đất nước.

* Đánh thức lòng tự hào dân tộc để mỗi người dân tự nguyện tham gia bảo tồn các giá trị văn hóa

Việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số mặc dù đã đạt được nhiều kết quả, nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Bản sắc văn hóa nhiều dân tộc thiểu số đã và đang mai một. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí không đồng đều, công tác bảo tồn và phát huy còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả...

Do đó, tại nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý nhà nước đều khẳng định việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là một vấn đề cần thiết và cấp bách, đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, để gìn giữ và bảo tồn văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống, cần tiếp tục nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về vai trò của văn hóa nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng trong quá trình phát triển đất nước. Đảng ta đã xác định văn hóa là nền tảng, là động lực, là sức mạnh nội sinh cho sự phát triển đất nước. Nhận thức này cần phải được thấm nhuần sâu rộng trong toàn bộ xã hội, cụ thể là trong mỗi lĩnh vực kinh tế-xã hội của đất nước.

Đại điện Cục Văn hóa cơ sở cho biết, việc bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc cần kiên trì thực hiện trong thời gian dài. Trước hết phải đánh thức, kêu gọi lòng tự hào dân tộc để mỗi người dân tự nguyện tham gia bảo tồn di sản. Bên cạnh tổ chức các hội thi, cần khuyến khích các hoạt động văn hóa tại địa phương thông qua các lễ thức ở mỗi gia đình, lễ nghi của buôn làng… Đồng thời, tăng cường giảng dạy, phục dựng các làn điệu dân ca, dân vũ, nhạc cụ dân tộc trong cộng đồng. Đây là giải pháp hiệu quả để giữ được những nét đặc sắc nhất trong văn hóa của các dân tộc.

Tháng 3/2022, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện Dự án “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”. Dự án này góp phần hành động thiết thực nhằm khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hóa; hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hóa cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Từ đó, nâng cao mức thụ hưởng về văn hóa cho đồng bào các dân tộc gắn với phát triển du lịch cộng đồng, ưu tiên các dân tộc thiểu số rất ít người./.

Minh Duyên (tổng hợp)

  • Chia sẻ: