Trận Bạch Đằng 1288
Cuối 12.1287, quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tiến công xâm lược Đại Việt. Sau hơn hai tháng tiến công, tuy đã chiếm được thành Thăng Long và một vùng rộng lớn ở châu thổ sông Hồng, nhưng quân Nguyên không thực hiện được mưu đồ tiêu diệt quân chủ lực và vua quan Nhà Trần. Trước tình hình ngày càng sa lầy vào thế trận chiến tranh nhân dàn của đối phương; bị tiến công ở nhiều nơi, quân lính ốm yếu, thiếu lương thực, bị tổn thất cả lực lượng và tinh thần, Thoát Hoan quyết định rút quân để tránh nguy cơ bị tiêu diệt. Theo kế hoạch, quân Nguyên rút theo hai đường thuỷ bộ, trong đó đạo quân thuỷ khoảng hơn 60 nghìn và 600 chiến thuyền do Ô Mã Nhi chỉ huy, có kị binh hộ tống rút bằng đường thuỷ ra sông Bạch Đằng. Nắm chắc ý đồ của địch, Trần Quốc Tuấn bố trí lực lượng chặn đánh trên các ngả đường quân Nguyên có thể rút chạy; đồng thời chọn sông Bạch Đằng (đoạn cửa sông Chanh - sông Thái Khê, nay thuộc huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) làm nơi quyết chiến, dựng trận địa cọc ngầm ở cửa sông Chanh (liền sát sông Bạch Đằng) và sông Rút, bố trí quân thuỷ, bộ mai phục kết hợp với thuyền lửa hoả công, có thuỷ binh của vua Trần đánh bọc phía sau. Trần Quốc Tuấn tập trung một lực lượng lớn quân chủ lực của triều đình vào trận Bạch Đằng: Đạo quân của Trần Quốc Tuấn, đạo quân của hai vua Trần, đạo quân của Nguyễn Khoái, đạo quân của Phạm Ngũ Lão, đạo quân của các vương con của Trần Quốc Tuấn (như Hưng Trí Vương Trần Quốc Hiện), đạo quân của Trần Nguyên Bảo. Ngoài ra, còn có quân của các vương hầu, Lực lượng Vũ trang địa phương và sự đóng góp rất lớn của nhân dân vùng ven biển Hạ Hồng (Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh). Trần Quốc Tuấn tổ chức lực lượng mai phục trong những cánh rừng và bãi sú vẹt kín đáo ven sông bên tả ngạn; tập trung chủ yếu ở vùng cửa sông Chanh, sông Kênh (nơi thực hiện trận quyết chiến tiêu diệt toàn bộ quân thuỷ, bộ địch). Nhiều thuyền nứa, thuyền nan chất đầy củi khô tẩm các thứ nhựa, dầu cháy đã được chuẩn bị sẵn sàng ở chân núi Tràng Kênh để thực hiện kế hoả công; 1 đội thuyền nhẹ sẵn sàng khiêu chiến nhử địch. Ngoài ra, các đạo quân của hai vua Trần đóng ở Hiệp Môn bên bờ sông Giáp (sông Kinh Thầy) sẵn sàng tham chiến.
Ngày 30.3.1288, quân Nguyên bắt đầu rút lui: đoàn kị binh do Trịnh Bằng Phi chỉ huy làm nhiệm vụ hộ tống cho đạo thủy binh của Ô Mã Nhi bị quân ta chặn đánh quyết
liệt buộc phải quay lại. Ngày 8.4, bộ phận tiền quân do Lưu Khê chỉ huy tiến đến sông Giá cũng bị quân ta đón đánh quyết liệt ở Trúc Động (nay thuộc Thủy Nguyên, tp Hải Phòng), buộc cả đoàn thuyền địch phải quay lại sông Đá Bạc để xuôi về sông Bạch Đằng theo đúng kế hoạch cùa ta. Do bị chặn đánh quyết liệt và liên tục nên tốc độ rút lui của địch rất chậm, phải mất 10 ngày đạo thủy binh của Ô Mã Nhi mới đi được chặng đường khoảng 50 km, từ Vạn Kiếp đến chỗ rẽ vào sông Giá. Sáng sớm 9.4, đúng lúc triều cường, đoàn thuyền Ô Mã Nhi theo sông Đá Bạc tiến dần vào trận địa mai phục, bị đội quân khiêu chiến của ta chặn đánh rồi giả thua, vừa đánh vừa rút và nhừ địch đi vào hướng trận địa mai phục. Quân Nguyên được lệnh đuổi theo, đúng lúc nước triều xuống thấp. Từ các nhánh sông, các đội thuyền nhẹ cùa ta bất ngờ tiến công vào bên sườn đội thuyền địch, dồn đội hình địch tiến nhanh về phía các bãi cọc ngầm. Một số thuyền quân Nguyên do Phàn Tiếp chi huy áp sát bờ sông phía Tràng Kênh định đổ bộ lên bờ chiếm khu vực núi cao để yểm trợ cho việc rút chạy, nhưng bị lực lượng của tướng Trần Quốc Bảo phục sẵn chặn đánh gây cho địch nhiều thiệt hại.
Khi nước triều xuống thấp, toàn bộ đoàn thuyền địch đã lọt vào trận địa mai phục, theo lệnh của Trần Quốc Tuấn, các cánh quân thủy bộ ta từ các nhánh sông và trong các lùm cây, bãi sú đồng loạt tiến công vào đội thuyền địch. Quân Thánh dực nghĩa dũng do tướng Nguyễn Khoái chi huy cùng quần địa phương dựa vào Ghềnh Cốc lập thành một dải chiến thuyền chặn đầu quân địch, đồng thời hai vua Trần cũng chỉ huy đại quân từ phía sau phối hợp đuổi đánh. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức quyết liệt; quân ta bám sát và tiến công quyết liệt vào đoàn thuyền địch, kết hợp với tiếng chiêng trống, hò reo khiến quân Nguyên hoảng loạn. Các thuyền chiến của ta cơ động nhanh áp sát thuyền địch, dùng gươm, câu liêm hai lưỡi, lưỡi quắm, giáo dài, dùi bốn cạnh tiến công quyết liệt vào đội hình địch. Trong khi đó, nhiều thuyền chiến của địch va vào ghềnh cạn bị đắm hoặc bị nghiêng và bị dồn lại. Chớp thời cơ, các bè nứa, thuyền nan chứa đầy chất dễ cháy giấu sẵn ở vùng Tràng Kênh, từ các làng Do Lễ, Phụ Lễ, Phả Lễ, được lệnh xuôi theo dòng nước lao thẳng vào đội hình, đốt cháy nhiều thuyền chiến của địch đang hỗn loạn và tắc nghẽn trước bãi cọc ngầm. Một bộ phận quân địch chạy theo bờ tả ngạn Yên Hưng tìm đường trốn thoát, nhưng bị quân ta mai phục tiêu diệt phần lớn, tướng giặc Phạm Nhan bị bắt. Trong thời điểm diễn ra cuộc thuỷ chiến và hoả công quyết liệt, đoàn thuyền chiến của hai vua Trần theo kế hoạch đã kịp tới phối hợp tiến công vào phía sau đội hình quân địch, khiến cho quân Nguyên càng hỗn loạn và bị tổn thất nặng nề. Nước triều xuống nhanh, các chiến thuyền quân Nguyên bị cọc nhọn đâm thủng hoặc bị đốt cháy và phá hủy, đến chiều 9.4, phần lớn đoàn thuyền chiến của quân Nguyên bị đánh tan. Ô Mã Nhi cùng với nhiều tướng bị bắt (trong đó có Lí Thiên Hựu, Lưu Khuê, Tích Lệ Cơ); hơn 400 thuyền bị tịch thu.
Trận Bạch Đằng 1288, thể hiện trình độ cao về nghệ thuật quân sự của quân dân Đại Việt thời Trần và tài thao lược kiệt xuất của Trần Quốc Tuấn. Kế thừa và phát huy truyền thống trận địa cọc ngầm trong trận Bạch Đằng năm 938, bằng cách chặn kị binh hộ tống, chốt chặn các hướng rút quân và nhử thuỷ binh địch vào đúng nơi đã định, chọn thời cơ tập trung lực lượng đánh bất ngờ khi nước triều xuống, chi trong 1 ngày (9.4), quân dân Nhà Trần đã tiêu diệt hầu hẽi đạo quân thuỷ, bộ, bắt sống tướng giặc, thu nhiều chiến thuyền. Đó là trận quyết chiến chiến lược, đập tan ý chi xâm lược của Nhà Nguyên, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần III bảo vệ vững chắc nen độc lập dân tộc.
Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)