Trận chiến đấu không quân 3/4/1965
Sau gần 1 tháng triển khai Chiến dịch sấm Ren (2.3.1965-31.10.1968), đánh phá các mục tiêu quân sự và kinh tế, ngày 1.4.1965, không quân Mĩ chuyển sang đánh phá hệ thống giao thông, cầu cống, bến phà và một số mục tiêu khác trên địa bàn các tỉnh thuộc Quân khu 4, đồng thời chuẩn bị mở rộng chiến tranh phá hoại ra ngoài vĩ tuyến 20, nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho Cách mạng miền Nam, trong đó khu vực cầu Hàm Rồng là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay địch.
Trước tình hình không quân Mĩ tăng cường hoạt động đánh phá, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân quyết định mở mặt trận trên không, đưa không quân tiêm kích vào chiến đấu. Trung đoàn Không quân 921 có nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng phòng không chặn đánh máy bay Mĩ, bảo vệ cầu Hàm Rồng (thời điểm này lực lượng phòng không tại khu vực cầu Hàm Rồng có 2 đại đội pháo phòng không 57 mm của Trung đoàn 234, hai đại đội pháo phòng không 37 mm của Quân khu 3 và 1 đại đội súng máy phòng không 14,5 mm của Sư đoàn Bộ binh 304; ngoài ra còn có lực lượng phòng không của tàu hải quân hoạt động trên sông Mã cùng một số đơn vị bộ đội địa phương và dân quân tự vệ bố trí ở các bến vượt, cầu, phà). Thực hiện nhiệm vụ được giao, Ban chỉ huy Trung đoàn 921 sử dụng 2 biên đội máy bay MiG-17 tham gia trận đánh đầu tiên, trong đó biên đội trực tiếp chiến đấu gồm Phạm Ngọc Lan (số 1), Phan Văn Túc (số 2), Hồ Văn Quỳ (số 3) và Trần Minh Phương (số 4); biên đội làm nhiệm vụ nghi binh, kiềm chế máy bay tiêm kích của địch, gồm Trần Hanh (số 1), Phạm Giấy (số 2).
7 giờ ngày 3.4, phát hiện 1 tốp máy bay vào trinh sát khí tượng và trinh sát mục tiêu, Sở chỉ huy quân chủng nhận định có khả năng địch sẽ huy động lực lượng lớn đánh phá cầu Hàm Rồng. Vào lúc 9 giờ 40 phút ngày 3.4, hải quân Mĩ huy động 60 lần chiếc máy bay cường kích tập trung đánh phá các mục tiêu cầu Tào, cầu Đò Lèn và cầu Hàm Rồng. Sở chỉ huy tiền phương quân chủng ra lệnh cho các biên đội vào cấp 1 lúc 9 giờ 47 phút ngày 3.4, biên đội yểm trợ được lệnh cất cánh từ sân bay Nội Bài về hướng tây nam làm nhiệm vụ kiềm chế máy bay tiêm kích địch; sau đó 1 phút, biên đội tiến công cũng được lệnh cất cánh, tiến về vùng trời Thanh Hoá. Được Sở chỉ huy và rađa kịp thời dẫn đường, sau 20 phút biên đội Phạm Ngọc Lan đã nhanh chóng phát hiện mục tiêu và chuyển từ đội hình cảnh giới sang công kích. Bằng cách đánh cơ động, táo bạo, bất ngờ, kết hợp giữa yểm trợ và tiến công, biên đội tổ chức thành 2 tốp liên tục bám sát, đánh trả nhiều tốp máy bay địch. Chớp thời cơ nổ súng, Phạm Ngọc Lan và Phan Văn Túc bắn rơi 2 máy bay F-8U, góp phần bè gãy các đợt đánh phá của địch, bảo vệ được cầu. 10 giờ 17 phút, các biên đội được lệnh thoát li chiến đấu, trở về căn cứ bảo đảm an toàn (riêng máy bay của phi công Phạm Ngọc Lan do hết nhiên liệu, phải hạ cánh xuống bãi cát ven sông Đuống).
Trận chiến đấu không quân 3.4.1965, trận đánh chính thức mở ra mặt trận chiến đấu trên không của Không quân nhân dân Việt Nam chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ ra miền Bắc Việt Nam, đồng thời để lại kinh nghiệm bước đầu về xây dựng cách đánh của bộ đội không quân Việt Nam phối hợp với các lực lượng phòng không đánh trả máy bay hiện đại của không quân Mĩ. Thắng lợi của trận đánh chứng tỏ lực lượng Không quân nhân dân Việt Nam tuy còn non trẻ và đang trong quá trình xây dựng, nhưng bằng ý chí dũng cảm và khả năng sáng tạo, sẽ nhanh chóng trưởng thành và lớn mạnh, đủ sức đánh thắng kè thù. Sau thắng lợi của trận đánh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen các đơn vị không quân nhân dân lập chiến công đầu; ngày 3.4 trở thành ngày truyền thống của Không quân nhân dân Việt Nam.
Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)