Tưởng nhớ Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh

Hải Dương (TTXVN 23/3/2024) Sáng 23/3, Lễ hội truyền thống đền Xưa tưởng nhớ Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh đã diễn ra tại xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương). Lễ hội được tổ chức trong hai ngày 23 - 24/3 kỷ niệm ngày mất của Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh.

Cung tuyên Văn tế Đại danh y – Thiền sư Tuệ Tĩnh tại lễ khai hội. Ảnh: Tiến Vĩnh – TTXVN

Sự kiện được tổ chức với mong muốn tiếp tục phát huy và làm giàu thêm những giá trị văn hóa đền Xưa; đồng thời, trao truyền những cống hiến to lớn về lý luận và thực tiễn cho nền y dược học dân tộc của Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh. Phần lễ được thực hiện với các nghi thức như: mở cửa đền, tế cáo yết, đánh trống khai hội, văn tế Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh, dâng hương. Phần hội diễn ra nhiều hoạt động sôi nổi như: các trò chơi dân gian, hát quan họ, giao lưu văn nghệ, triển lãm thư pháp, bắt mạnh kê đơn, tư vấn sức khỏe cho nhân dân.    

Đền Xưa - chùa Giám - đền Bia là cụm 3 di tích nằm trên địa bàn 3 xã Cẩm Sơn, Cẩm Vũ và Cẩm Văn (huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ba di tích ở rất gần nhau, cùng thờ một vị tổ là Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh. Tháng 12/2017, cụm di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật này được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.

Đền Xưa tọa lạc tại thôn Nghĩa Phú (xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng), quê hương của Đại danh y Tuệ Tĩnh. Ông tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, sinh năm 1330 tại làng Nghĩa Phú, tổng Văn Thai, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng). Lên 6 tuổi, ông đã mồ côi cha mẹ và được trụ trì chùa Nghiêm Quang tức chùa Giám đón về nuôi dạy. Suốt cuộc đời tuổi thơ, ông nương tự chốn thiền môn. Năm 22 tuổi (1351), ông thi đỗ Hoàng giáp nhưng khước từ việc làm quan.
 
Thường xuyên chứng kiến những trận dịch lớn cướp đi mạng sống của những người dân nghèo khó, ông đã nghiên cứu dược liệu và chủ động việc trồng thuốc, tiếp tục thu thập những phương thuốc quý trong dân gian, lập y xá ngay tại các ngôi chùa để chữa bệnh bằng những bài thuốc, phương pháp đơn giản cứu giúp những người bệnh nghèo. Các nguồn tài liệu còn cho biết, ông đã tham gia xây dựng được 24 ngôi chùa và biến các ngôi chùa thành các cơ sở chữa bệnh, cứu sống được nhiều người. Với sự tận tụy của ông, phong trào trồng cây thuốc Nam ngày càng được truyền bá rộng rãi. Nhiều gia đình tự trồng thuốc và tự chữa bệnh đơn giản.

Năm 55 tuổi, sự nghiệp làm thuốc đang nở rộ, ông bị vua Trần xung vào đoàn đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Do có tài năng chữa khỏi bệnh cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh), vua Minh phong ông là Thái y - Thiền sư và giữ lại làm việc ở Viện Thái y. Một thời gian sau, ông mất tại Giang Nam, Trung Quốc.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã để lại cho hậu thế những di sản quý báu trên nhiều lĩnh vực, đóng góp cho kho tàng tri thức y, dược học dân tộc cùng với tinh thần tự tôn dân tộc, lòng yêu quê hương, đất nước. Ông đã tập hợp, nghiên cứu, hệ thống, tổng kết các phương pháp chữa bệnh gồm 10 khoa, 2 môn bằng 3.873 phương thuốc, 580 vị thuốc chữa bệnh cho 184 bệnh.
 
Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là người kế tục xứng đáng sự nghiệp của ông ở thế kỷ XVIII. Bằng những cống hiến to lớn như vậy, mặc dù gần 700 năm ông đi xa, nhưng tại quê hương Cẩm Giàng đã có ba nơi thờ ông; đó là: đền Xưa (xã Cẩm Vũ) - nơi ông sinh ra, chùa Giám (xã Định Sơn) và đền Bia (xã Cẩm Văn)./.

Tiến Vĩnh