Chiến dịch Trị Thiên - Huế (5-26/3/1975)
Trị Thiên - Huế là vùng đất dài và hẹp từ sông Bến Hải đến đèo Hải Vân, phía tây là vùng rừng núi cao, phía đông là biển. quốc lộ 1 là đường giao thông huyết mạch đi về phía nam, qua đèo Hải Vân hiểm trở, dễ bị chia cắt. Với vị trí tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Trị - Thiên trở thành một chiến trường có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, quân sự đối với cả ta và địch.
Từ sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972, địch điều thêm 2 sư đoàn thuộc lực lượng dự bị chiến lược (Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến và Sư đoàn Dù) bố trí ở Trị - Thiên và Đà Nẵng, xây dựng Quân khu 1 thành một trong những trung tâm Quân sự mạnh nhất ở miền Nam Việt Nam. Đến đầu tháng 3.1975, trên địa bàn Trị Thiên - Huế, lực lượng địch có khoảng 56 nghìn quân (chủ lực 28.500), gồm Sư đoàn Bộ binh 1 (4 trung đoàn), Sư đoàn Thủy quân lục chiến (3 lữ đoàn 147, 258 và 369), Lữ đoàn Dù 2, Liên đoàn Biệt động quân 15, 2 liên đoàn và 21 đại đội bảo an, 319 trung đội dân vệ; 10 tiểu đoàn pháo binh với 194 pháo từ 105 đến 175 mm; 3 thiết đoàn thiết giáp (260 xe tăng, xe thiết giáp), 1 tiểu đoàn pháo phòng không (27 xe M42 gắn pháo 40 mm loại 2 nòng và 37 xe gắn súng máy 12,7 mm loại 6 nòng và 4 nòng), 3 duyên đoàn và 3 giang đoàn (81 tàu, thuyền chiến đấu), 1 phi đoàn máy bay trực thăng vũ trang, 2 phi đội máy bay trinh sát, ngoài ra còn được 1 sư đoàn không quân ở sân bay Đà Nẵng trực tiếp chi viện 40-60 lần chiếc/ngày. Địch tổ chức phòng ngự theo khu vực, lấy trung đoàn, lữ đoàn chủ lực làm nòng cốt; khu vực Quảng Trị và tây bắc Huế được phòng ngự vững chắc, địch đưa lực lượng bảo an ra phòng ngự ở vòng ngoài, các lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ lùi vào bên trong làm lực lượng cơ động. Trên hướng nam và tây nam Huế, hệ thống phòng ngự sơ hở hơn, địch tập trung giữ khu vực Mỏ Tàu, điểm cao 303, Động Truồi (tây Phú Lộc) dãy Kim sắc, chốt giữ các đoạn đường quan trọng từ Lăng Cô đến Đá Bạc (Phú Lộc).
Về phía ta, thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược năm 1975 (nam Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu), ngày 10.2.1975, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên phối hợp mở chiến dịch tiến công tổng hợp ở vùng đồng bằng và giáp ranh Trị - Thiên nhằm tiêu diệt, làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch, giải phóng 50% số dân đồng bằng, thực hiện chia cắt chiến lược đối với địch; khi thời cơ thuận lợi, phát triến tiến công giải phóng Trị Thiên - Huế.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Quân đoàn 2 có 2 sư đoàn bộ binh 324, 325 (mỗi sư đoàn thiếu 1 trung đoàn), Sư đoàn Phòng không 673, Lữ đoàn Pháo binh 164, Lữ đoàn Xe tăng 203, Lữ đoàn Công binh 219; Quân khu Trị - Thiên có 3 trung đoàn bộ binh (4, 6, 271), 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn công binh, 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn bộ binh đánh giao thông và 1 tiểu đoàn vận tải cơ giới, cùng các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh, đại đội, trung đội địa phương huyện, dân quân, du kích xã. Để thống nhất lãnh đạo, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy Mặt trận Trị - Thiên gồm một số ủy viên trong Khu ủy, Quân khu ủy Trị - Thiên và Đảng ủy Quân đoàn 2; Thiếu tướng Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy được cử làm Bí thư Đàng ủy Mặt trận. Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy quân đoàn và quân khu trong quá trình chiến dịch.
Ngày 21.2.1975, Đảng ủy Mặt trận thông qua kế hoạch chiến dịch, hướng tiến công chủ yếu là hướng tây nam Huế theo đường 14 đến tây nam Phú Lộc (nam Thừa Thiên); mục tiêu tiến công chủ yếu là khu vực Mỏ Tàu, điểm cao 303; hướng tiến công phối hợp, nghi binh chiến dịch là đường 12 (khu vực Chúc Mao, Sơn Na, Bình Điền, Hòn Vượn), đánh phá bình định ở vùng giáp ranh tây Hải Lăng và đồng bằng nam Thừa Thiên.
Quân đoàn 2 đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu của chiến dịch, trong đó Sư đoàn 324 (thiếu Trung đoàn 3) nổ súng trước, tiến công địch ở khu vực Mỏ Tàu, điếm cao 303; Sư đoàn 325 (thiếu Trung đoàn 95) nổ súng sau, tiến công trên cánh phải của quân đoàn, đánh chiếm các điểm cao 560, 520, 494, dãy Kim sắc làm bàn đạp tiến xuống cắt đứt đường 1 từ nam Lương Điền đến bắc Phú Lộc; Lừ đoàn Pháo binh 164, triển khai cụm pháo binh chiến dịch và một số trận địa bắn thăng ở sườn đông bắc dãy Lưỡi Cái.
Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên tổ chức thành hai bộ phận: Sở chỉ huy tiền phương ờ hướng trọng điểm, chỉ huy toàn bộ mặt trận nam Thừa Thiên và Sở chỉ huy cơ bản ở Cốc Ba Bó. Sở chỉ huy cơ bản của Quân đoàn 2 ở Động Truồi, nam Thừa Thiên. Thời gian nổ súng thống nhất ngày 5.3.1975, riêng Quân đoàn 2, nổ súng vào ngày 8.3. Cùng với việc chuẩn bị phương án tác chiến, các mặt bảo đảm cho chiến dịch được triển khai sớm; công tác trinh sát nắm địch, địa hình, chuẩn bị chiến trường và phương án chiến đấu được các đơn vị tiến hành chu đáo, tỉ mỉ.
Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, đảm bảo cho Quân đoàn 2 cơ động lực lượng từ Quảng Trị vào tây nam Thừa Thiên, ta tiến hành nhiều hoạt động nghi binh, như diễn tập tiến công có thực binh ở vùng giải phóng bắc Quảng Trị, diễn tập của lực lượng vũ trang địa phương Quảng Trị ở khu vực Ái Tử, Tích Tường, Như Lệ. Đầu tháng 3, các lực lượng chủ lực bắt đầu chiếm lĩnh bàn đạp tiến công. Sư đoàn 324 cùng công binh mở đường và dùng sức người kéo pháo của Trung đoàn Pháo binh 78 lên trận địa cơ bản ở Động Truồi. Sư đoàn 325 cũng tổ chức kéo hàng chục pháo lớn vượt dốc cao lên chiếm lĩnh trận địa ở dãy Lưới Cái (cao 847 m). Lữ đoàn Pháo binh 164 hoàn thành việc tổ chức cụm pháo binh chiến dịch, chi viện cho bộ binh chiến đấu trên các hướng bắc đèo Hải Vân, nam Huế. Đến trước giờ nổ súng, các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 đã triển khai đúng vị trí, mọi công tác bảo đảm cho chiến dịch về cơ bản đã hoàn thành. Chiến dịch diễn ra 2 đợt.
Đợt 1 (5-20.3), phối họp với chiến trường chính Tây Nguyên, tiến công tiêu diệt địch ở vùng đồng bằng và giáp ranh Trị - Thiên. Ngày 5-7.3, các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên bắt đầu đánh nhỏ trên các trục đường giao thông, thực hiện nghi binh rộng rãi và triến khai lực lượng theo kế hoạch đã định. Quân khu đưa 5 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công cùng hơn 100 đội vũ trang công tác xuống đồng bằng và các địa bàn trọng điểm. Quân đoàn 2 cũng hoàn tất việc triển khai lực lượng trên hướng chú yếu ở khu vực điểm cao 303, Mỏ Tàu.
Ngày 8.3, Sư đoàn 324 nổ súng tiến công các điểm cao 75, 76, 224, 273, núi Bông, núi Nghệ ven đường 14. Lo sợ nếu ta chiếm được khu vực này sẽ có bàn đạp uy hiếp vùng đồng bằng nam Huế và dễ dàng cắt đứt đường 1 đoạn Cầu Hai, quân địch điều 2 trung đoàn của Sư đoàn Bộ binh 1, hai chi đoàn thiết giáp và nhiều tiểu đoàn khác lên tổ chức phản kích nhằm chiếm lại các vị trí đã mất. Trận chiến đấu giành giật các điểm cao ở khu vực này diễn ra ác liệt nhiều ngày. Tuy kết quả diệt địch ở khu vực trọng điểm của chiến dịch chưa cao (trong 8 ngày đầu, Sư đoàn 324 diệt và bắt gần 1 nghìn địch), nhưng đây là đòn hiểm, thu hút nhiều chủ lực địch, tạo điều kiện cho các lực lượng của Quân khu Trị - Thiên hoạt động có hiệu quả.
Tận dụng thời cơ địch bị thu hút vào khu vực trọng điểm, lực lượng vũ trang địa phương ở 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng tiến công tiêu diệt chi khu Mai Lĩnh, đánh vào 12 phân chi khu; lực lượng ở 3 huyện bắc Thừa Thiên đánh vào 9 phân chi khu; ở vùng đồng bằng nam Thừa Thiên đánh vào 9 phân chi khu. Các lực lượng vũ trang địa phương và đội vũ trang công tác vừa liên tục tiến công địch, vừa phát động nhân dân nổi dậy làm tan rã hệ thống ngụy quyền ở nhiều nơi. Đặc biệt, ở khu vực đường 12, trong 3 ngày (13-15.3) Trung đoàn 6 của quân khu tiến công tiêu diệt cứ điểm Chúc Mao và điểm cao 300, tạo thêm áp lực uy hiếp Huế từ hướng tây bắc.
Trước chiến thắng của ta ở Tây Nguyên, ngày 14.3, Tống thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút bỏ Kon Tum, Pleiku, điều Sư đoàn Thuỷ quân lục chiến từ Quảng Trị về Đà Nẵng thay thế cho Sư đoàn Dù về tăng cường phòng thủ Sài Gòn. Tinh thần binh lính địch ở Trị Thiên - Huế càng hoang mang, dao động, lực lượng địch ở Quảng Trị bị xáo trộn và giảm hẳn 5 tiểu đoàn.
Trong tình hình diễn biến mau lẹ, đêm 18 rạng sáng 19.3, các lực lượng vũ trang Quảng Trị bất ngờ tiến công vào toàn bộ tuyến phòng thủ của địch, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị trong ngày 19, buộc địch rút chạy về lập tuyến phòng ngự mới ở nam sông Mĩ Chánh. Ngày 20.3, Bộ Tổng tư lệnh gửi điện thông báo quân địch có thể rút khỏi Thừa Thiên - Huế để co cụm ở những trọng điểm chiến lược và lệnh cho Quân khu Trị - Thiên không dừng lại ở Mĩ Chánh, sử dụng 2 trung đoàn (4,6) tiếp tục tiến công từ phía bắc, kết hợp với Quân đoàn 2 từ phía nam đánh lên tiêu diệt địch ở Huế, bịt chặt cửa biển Thuận An không cho địch rút chạy theo đường biển. Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2 nhanh chóng thống nhất kế hoạch giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên - Huế. Cuối ngày 20.3, mọi công tác chuẩn bị về cơ bản đã hoàn thành.
Đợt 2 (21-26.3), tranh thủ thời cơ, dốc toàn lực giải phóng Thừa Thiên - Huế, chặn đứng đường rút chạy của địch. 5 giờ 40 phút ngày 21.3, các lực lượng của Quân đoàn 2 đồng loạt nổ súng, Sư đoàn 324 tiến công núi Bông, điểm cao 214; Sư đoàn 325 đánh chiếm các điểm cao 294, 520, 560, rồi nhanh chóng thọc xuống cắt đường 1,10 giờ 30 phút ngày 22.3, làm chủ đoạn đường 1, từ Bạch Thạch đen Dàn Bò (dài 4 km), cắt đứt tuyến giao thông đường bộ Huế - Đà Nẵng khiến quân địch lâm vào tình trạng hoang mang rối loạn. Phát huy thắng lợi, các lực lượng của Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên phát triển tiến công nhằm giải phóng Huế và chặn đường rút chạy của địch.
Phát hiện địch ở Huế chạy ra cửa Thuận An, Tư Hiền theo đường biển rút về Đà Nẵng, đêm 22.3, Sư đoàn 324 chuyển hướng tiến công, bỏ qua núi Bông, núi Nghệ, thọc xuống đường 1, tiêu diệt địch ở Phú Hải; tiếp đó Trung đoàn 1 vượt phá Tam Giang đánh chiếm cảng Tân Mĩ, một phần của Thuận An và chặn đường rút của địch ra cửa Tư Hiền; chiều 23, Trung đoàn 2 theo bờ tây phá Tam Giang đánh thẳng về phía đông Huế, kết hợp với Trung đoàn 1 đánh chiếm cửa Thuận An. Sư đoàn 325 sử dụng Trung đoàn 101 đánh chiếm Lương Điền, cùng Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324) đánh thẳng ra Phú Bài và Huế; Trung đoàn 18 tiến công Mũi Né, quận lị Phú Lộc, sau đó phối hợp với tiểu đoàn 21 địa phương chiếm cửa Tư Hiền vào đêm 23.3, triệt đường rút chạy cuối cùng của địch về Đà Nẵng.
Trên hướng bắc Huế, từ ngày 22 đến 24.3, bộ đội địa phương Quảng Trị có xe tăng của Lữ đoàn 203 đi cùng tiến công quân địch ở Thanh Hương, Đại Lộc, Hương Điền; sau đó về cửa Thuận An và Bao Vinh. Ở hướng tây, Trung đoàn 4 chủ lực quân khu đánh thẳng xuống Lai Bằng, phá vỡ phòng tuyến Bắc Bình, sau đó cùng lực lượng địa phương Quảng Trị chặn địch ở bắc cửa Thuận An và áp sát vùng bắc Huế. Pháo binh ta chế áp sân bay Phú Bài, sở chỉ huy Sư đoàn 1 ở Mang Cá, bắn chặn địch ở ngã ba Sinh và cửa Thuận An.
Ngày 24.3, các lực lượng của Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên đã vây chặt toàn bộ quân địch trong thành phố Huế. Rạng sáng 25.3, các cánh quân bắt đầu tiến vào Huế, đồng thời tiến công tiêu diệt các cánh quân địch dồn về khu càng Tân Mĩ - Thuận An. Được sự phối hợp của tự vệ thành và quần chúng nổi dậy, trưa 25.3, ta giải phóng Huế, trưa 26 giải phóng toàn bộ tỉnh Thừa Thiên, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Trị Thiên-Huế.
Kết quả chiến dịch, ta tiêu diệt, làm tan rã toàn bộ quân địch ở Trị Thiên - Huế gồm: Sư đoàn Bộ binh 1, Lữ đoàn Thủy quân lục chiến 147, 2 liên đoàn biệt động quân 14, 15; Lữ đoàn Kị binh thiết giáp 1, 8 tiểu đoàn pháo binh; 15 tiểu đoàn và 21 đại đội bảo an, 319 trung đội dân vệ, 7 nghìn cảnh sát cùng toàn bộ hệ thống ngụy quyền tỉnh, quận, xã. Riêng số địch bị bắt làm tù binh và ra trình diện là 58.772 quân (3.781 sĩ quan, trong đó có 1 đại tá, 18 trung tá, 81 thiếu tá) và 14 nghìn nhân viên ngụy quyền. Ta thu toàn bộ cơ sở vật chất, phương tiện chiến tranh gồm 140 xe tăng thiết giáp, 800 xe quân sự, 10 nghìn tấn đạn...; các sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 1, Sư đoàn 1 và khoảng 16 nghìn quân phải rút chạy vào Đà Nẵng.
Chiến dịch Trị Thiên-Huế đã đập tan một hệ thống căn cứ Quân sự trọng yếu, tấm lá chắn mạnh nhất của địch ở phía bắc, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của ta phát triển tiến công giải phóng Đà Nẵng. Thắng lợi của chiến dịch là đòn phủ đầu vào kế hoạch co cụm chiến lược của địch ở ven biển miền Trung, góp phần gây phản ứng dây chuyền, đẩy quận đội Sài Gòn nhanh chóng suy sụp về tinh thần và tổ chức; làm thay đối hẳn so sánh lực lượng giữa ta và địch trên hướng tiến công chiến lược phía bắc; cổ vũ mạnh mẽ quân và dân ta đẩy mạnh tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Chiến dịch Trị Thiên-Huế là một chiến dịch trong đòn tiến công chiến lược giải phóng Huế - Đà Nẵng, để lại nhiều bài học quý về tổ chức bộ máy chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch linh hoạt, đảm bảo cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng cơ động của Bộ, đồng thời vẫn phát huy được tính tích cực, chủ động của Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2; chọn hướng, mục tiêu tiến công chính xác (tây - nam Huế), đánh vào hướng hiểm yếu và bất ngờ đối với địch, khi thời cơ xuất hiện, nhanh chóng cắt đường 1 từ Huế đi Đà Nằng, hình thành thế bao vây, chia cắt chiến dịch; tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, hành động táo bạo, kịp thời; chọn cách đánh đúng đắn, sáng tạo, vừa đánh nhỏ trên các trục giao thông, bao vây uy hiếp địch trên tuyến giáp ranh, vừa tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô trung đoàn, sư đoàn, nổ súng đồng loạt trên nhiều hướng; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy, giữa bộ đội chủ lực với các lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng vũ trang quần chúng.
Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)