Chiến thắng Việt Bắc-Thu Đông năm 1947: giá trị lịch sử và hiện thực

Hà Nội (TTXVN 25/9/2017) Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954), chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 là một trong những sự kiện lịch sử có tầm chiến lược, tác động tích cực đến tiến trình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. 70 năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa và những bài học từ thắng lợi này vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được khẳng định tại Hội thảo khoa học “Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông năm 1947 - giá trị lịch sử và hiện thực”, do Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với Tỉnh ủy Bắc Kạn tổ chức, ngày 26/9/2017.

Chiến dịch Việt Bắc-Thu Đông năm 1947 (từ ngày 7/10 đến 22/12/1947) là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong chiến tranh Đông Dương, nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt bộ đội chủ lực của Việt Minh. Nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, Bác Hồ và với ý chí, tinh thần quả cảm, quân và dân ta đã làm thất bại cuộc tiến công của quân Pháp, góp phần đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích trên toàn chiến trường Việt Bắc.

* Chiến thắng Việt Bắc-Thu Đông năm 1947
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Bộ đội ta công kích đồng loạt vào các vị trí quân Pháp, sau đó nhanh chóng chuyển sang bao vây, ghìm giữ quân địch ở Hà Nội và các thành phố, thị xã trên địa bàn cả nước.
Bị sa lầy tại các thành phố, thị xã, thực dân Pháp xúc tiến việc chuẩn bị một cuộc tiến công lớn lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta bằng chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh". Với trên 12.000 quân tinh nhuệ được trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại, quân Pháp hình thành hai “gọng kìm” lớn theo đường số 4, số 3 và phối hợp với cánh quân tiến theo sông Lô, sông Gâm nhằm bao vây chặt căn cứ Việt Bắc; đồng thời, cho quân nhảy dù xuống trung tâm chiến khu, tiến hành càn quét, tìm diệt chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta.

Ngày 7/10/1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn mở đầu cuộc tiến công Việt Bắc. Chỉ một ngày sau, ngày 8-10, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn thể đồng bào đoàn kết kháng chiến, ra sức giết giặc. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp".
Nghiên cứu thế lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ tổng chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên 3 mặt trận: “Đánh mạnh ở mặt trận Sông Lô; đường số 4 và đường số 3 nhằm phá vận tải tiếp tế địch, phục kích các đường rừng, đánh đường sông; tại những căn cứ của địch luôn quấy rối, với những vị trí nhỏ thì bao vây tiêu diệt để phối hợp với Việt Bắc”.

Quân đội ta sử dụng các trung đoàn 147, 165 (chủ lực Bộ); 72, 74, 121 (Khu 1); 11, 36; 59; 98 (Khu 12); 1 tiếu đoàn pháo binh và Trung đoàn Sông Lô (Khu 10); 5 tiểu đoàn độc lập của Bộ, Khu 1 và Khu 12, các đơn vị binh chủng và du kích trên địa bàn chiến dịch. Chiến khu do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng. Chiến dịch tấn công của quân Pháp bắt đầu thì chiến dịch phản công của quân đội ta tại Việt Bắc cũng bắt đầu.

Ngay từ những ngày đầu, Trung đoàn Vệ quốc quân tại Cao Bằng bắn rơi máy bay chỉ huy của quân Pháp, Đại tá Lambert - Phó Tổng tham mưu quân viễn chinh Pháp cùng các cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp bị chết trong máy bay.

Ở mặt trận Sông Lô - Chiêm Hóa, địch vừa đổ bộ lên bến Bình Ca thì bị quân đội ta bắn chìm một pháo thuyền địch, tiếp đó diệt hơn một tiểu đội giặc lập chiến công đầu tiên trên sông Lô. Những trận đánh địa lôi, phục kích, bắn tỉa của quân đội ta làm cho quân đội Pháp không thể tiến theo các đường thủy, đường bộ, buộc chúng phải tiếp viện quân nhảy dù xuống Chiêm Hóa. Đoàn pháo binh cùng các binh đoàn chủ lực bắn chìm một số tàu chiến và ca nô của quân Pháp tại Đoan Hùng, Khoan Bộ, Khe Lau. Đường tiếp viện của quân Pháp từ Hà Nội lên bị cắt đứt.

Ở mặt trận đường số 4, các đại đội độc lập và quân dân du kích Cao Bằng, Lạng Sơn phục kích, bắn tỉa trên đường địch hành quân, tiến công tiêu diệt địch tại Đông Khê, Thất Khê. Tiểu đoàn tập trung Lạng Sơn lợi dụng địa hình đánh trận phục kích xuất sắc, diệt 33 xe cơ giới, gần 300 tên địch tại Bông Lau, thu toàn bộ vũ khí. Đường số 4 thành “con đường máu” của thực dân Pháp.

Ở mặt trận đường số 3, tự vệ quân giới phối hợp với dân quân dân tộc ít người đánh quân Pháp đi lẻ. Các tiểu đoàn tập trung thuộc Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Chiến khu 1, tập kích, đánh địa lôi hàng trăm lính Pháp bị tiêu diệt trong công sự, cắt đứt đường tiếp viện của quân Pháp từ Cao Bằng xuống Bắc Kạn. Các binh đoàn lớn của thực dân Pháp càng đi sâu vào căn cứ Việt Bắc càng bị chia cắt và hao mòn lực lượng…
Trải qua 75 ngày đêm chiến đấu, chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 của địch đã bị đập tan. Quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 7.200 quân địch, bắn rơi và làm hư hại 18 máy bay, bắn chìm 16 tàu chiến và 38 canô; phá hủy 255 xe các loại. Ta thu hai pháo 105mm, 7 pháo 75mm, 16 khẩu 20mm, 337 súng máy các cỡ, 45 Badôca, 1.660 súng trường cùng hàng chục tấn quân trang, quân dụng.

* Giá trị lịch sử và hiện thực
Chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông 1947 khẳng định chủ trương tổ chức “đại đội độc lập” và “tiểu đoàn tập trung” là đúng đắn và phù hợp với điều kiện trang bị, trình độ tác chiến của lực lượng vũ trang cũng như đặc điểm chiến trường của ta lúc bấy giờ. Nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng trong Chiến dịch năm xưa là một bước sáng tạo, trở thành phương thức cần thiết để phát động phong trào toàn dân đánh giặc, tạo thế, tạo lực cho “du kích chiến” phát triển và “du kích vận động chiến” có đà mở rộng ra phạm vi chiến trường cả nước. Đây là bước phát triển mới, đặt nền móng cho nghệ thuật chiến dịch Việt Nam; góp phần vào thắng lợi của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nhận xét: Cuộc tiến công chiến lược lên căn cứ địa Việt Bắc “là cuộc tiến công mang nhiều tham vọng nhất của Pháp trong suốt quá trình chiến tranh xâm lược ở Đông Dương, ngoài kế hoạch Na-va sau này, nhằm kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

Tuy nhiên, sức mạnh quân sự và tham vọng của thực dân Pháp không thể chiến thắng được bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Với thắng lợi vang dội của Chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947, quân và dân Việt Nam đã đập tan cả bốn mục tiêu của thực dân Pháp khi chúng hành quân lên Việt Bắc; đồng thời, chính thức viết “giấy khai tử” cho chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, buộc chúng phải bị động đánh lâu dài căng kéo với ta.

Chiến thắng này còn là minh chứng hùng hồn về sự lãnh đạo, chỉ đạo sắc bén, tài thao lược của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua chiến dịch, Quân đội nhân dân Việt Nam có bước phát triển về hình thức chiến thuật và phương thức tổ chức lực lượng, tích lũy kinh nghiệm về “du kích chiến”, “vận động chiến”, đặc biệt là phương châm tác chiến “đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Đặc biệt, đây cũng là chiến dịch phản công đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã vận dụng thành công nghệ thuật chiến dịch “Tiến công trong phản công trên địa bàn rừng núi”, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giải đoạn mới

Theo Đại tá Dương Hồng Anh - Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: để chuẩn bị cho Hội thảo lần này, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị tích cực làm tốt công tác chuẩn bị theo đúng kế hoạch. Nội dung các tham luận đề cập toàn diện về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Bộ Quốc phòng, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Chỉ huy chiến dịch trên các lĩnh vực. Các tham luận tập trung phân tích những bài học kinh nghiệm có giá trị chỉ đạo chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, về phối hợp hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng và vận dụng, phát huy hiệu quả những kinh nghiệm trong tình hình mới./.
                                                                                                                       Tuấn Anh (tổng hợp)