Đại tướng Đoàn Khuê - Người chỉ huy mưu lược trên chiến trường

    Nhân vật liên quan

    • Ủy viên Bộ Chính trị khóa VI, VII, VIII; Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; (1991-1997) Đoàn Khuê

Hà Nội (TTXVN 24/10/2023) Trong chặng đường 60 năm hoạt động cách mạng, Đại tướng Đoàn Khuê đã đảm nhiệm nhiều cương vị và có mặt ở nhiều vùng miền, địa phương, chiến trường khác nhau; trong đó có hơn 40 năm gắn bó với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và làm nghĩa vụ quốc tế cao cả. Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng “luôn đem hết sức mình cống hiến cho Đảng, cho nhân dân; đặt lợi ích của cách mạng; của nhân dân lên trên hết, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng; luôn trau dồi kiến thức, sâu sát cơ sở, giữ vững tính Đảng… là tấm gương sáng về phẩm chất của người cán bộ cách mạng, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, để lại tấm gương tốt đẹp là một nhà chính trị, quân sự xuất sắc.

* Người chiến sĩ cách mạng kiên trung

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương giàu truyền thống cách mạng, người thanh niên Đoàn Khuê đã sớm giác ngộ, tham gia hoạt động cách mạng khi mới 16 tuổi. Ngay từ những ngày đầu tham gia cách mạng, đồng chí đã tích cực hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế, làm Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Triệu Phong.

Năm 17 tuổi, đồng chí bị địch bắt và kết án tù, giam tại nhà lao Quảng Trị, sau đó đưa đi nhà đày Buôn Ma Thuột. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, nhưng đồng chí luôn tỏ rõ chí khí kiên cường, bất khuất, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng kiên trung, tích cực hoạt động trong Ủy ban vận động cách mạng - một tổ chức bí mật của ta ở trong tù, nhằm đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc.

Thoát khỏi lao tù thực dân, đồng chí về hoạt động gây cơ sở cách mạng ở Quảng Bình, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Quảng Bình. Kiên cường, bất khuất trong lao tù đế quốc, nhạy bén tranh thủ thời cơ khởi nghĩa, đồng chí Đoàn Khuê đã góp phần tích cực vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ở tỉnh Quảng Bình.

Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi, đồng chí được cử làm Ủy viên Quân sự Ủy ban Quân chính Khu C, gồm lực lượng vũ trang Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam. 

* Người chỉ huy mưu lược trên chiến trường

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: Chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân trung học Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Trung đoàn ủy các trung đoàn chủ lực 69, 73, 78, 126 và 84; Chính ủy, Bí thư Trung đoàn ủy Trung đoàn 108 Liên khu 5. Với tư duy chính trị, quân sự sắc sảo và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí đã cùng cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Tên tuổi của đồng chí gắn liền với những chiến công vang dội của quân và dân ta trên chiến trường Tây Nguyên, tiêu biểu là chiến thắng An Khê (1953) Măng Đen và Chư Đrếch (1954)...

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí Đoàn Khuê tiếp tục được Đảng, Quân đội giao đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như: Chính ủy Đại đoàn Pháo binh 675; Phó Chính ủy Sư đoàn 305 - Sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ; Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn Pháo binh 351; Chính ủy Lữ đoàn 341 khu vực giới tuyến quân sự; Phó Chính ủy, Ủy viên Quân khu ủy Quân khu 4. Đồng chí đã có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng thế trận phòng thủ vững chắc, thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh trên địa bàn chiến lược Quân khu 4. Đặc biệt, trong thời gian được Tổng Quân ủy cử làm Chính ủy Lữ đoàn 341, đồng chí đã cùng Ban Chỉ huy Lữ đoàn chỉ huy đơn vị phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân vũ trang và đảng bộ, chính quyền địa phương xây dựng Vĩnh Linh thành lũy thép kiên cường; cùng với Đặc khu ủy Đặc khu Vĩnh Linh sớm đề ra chủ trương “tiến lên phía trước để bảo vệ phía sau’’, xây dựng các đơn vị vũ trang đầu tiên cho hai huyện Gio Linh và Cam Lộ. Những đóng góp của đồng chí đã tạo dựng cơ sở cho những chiến công đặc biệt xuất sắc của quân và dân Quân khu 4 trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau này.

Năm 1963, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt, đồng chí Đoàn Khuê được Quân ủy Trung ương cử vào chiến trường miền Nam, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Phó Chính ủy Quân khu 5, Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên (B3), Phó Bí thư Quân khu ủy, Ủy viên Thường vụ Khu ủy Khu 5. Đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, từ năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Trong điều kiện quân địch có lực lượng quân sự hùng hậu, trang bị vũ khí hiện đại, đồng chí Đoàn Khuê đã cùng Quân khu ủy lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng, xây dựng bản lĩnh, ý chí quyết tâm dám đánh, quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ xâm lược cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; cùng tập thể Quân khu ủy đẩy mạnh xây dựng các sư đoàn chủ lực và thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh, rộng khắp. Quân khu 5 trở thành “địa phương đi đầu diệt Mỹ’’ với những trận đánh, chiến dịch nổi tiếng, như: Núi Thành (26/5/1965), Vạn Tường (18 và 19/8/1965), Plei Me (19/10 đến 26/11/1965), Đồng Dương (17/11 đến 18/12/1965)… Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, nhờ bám sát thực tiễn chiến trường, đánh giá đúng tình hình địch, ta, đồng chí Đoàn Khuê cùng Quân khu ủy Quân khu 5 nhạy bén, quyết đoán, linh hoạt và sáng tạo trong tổ chức, sử dụng lực lượng, chỉ đạo tác chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao . Đây là một trong những dấu ấn nổi bật, khẳng định tài năng và bản lĩnh của một nhà chính trị, quân sự xuất sắc của Đảng và Quân đội ta.

Sau Hiệp định Pari (27/1/1973), đồng chí cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chỉ đạo các đơn vị nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đánh địch, giữ vững vùng giải phóng. Trong trận Nông Sơn - Trung Phước (7/1974), đồng chí Đoàn Khuê chỉ đạo thực hiện thắng lợi chiến thuật “bao vây đánh lấn, tiến công dứt điểm”, tạo ra thế và lực mới cho ta trên chiến trường Khu 5 trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, với tư duy quân sự sắc sảo và tầm nhìn chiến lược, đồng chí Đoàn Khuê đã cùng tập thể Quân khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 xử trí kịp thời, hiệu quả nhiều tình huống phức tạp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch tiến công giải phóng Đà Nẵng (26 đến 29/3/1975), tạo điều kiện thuận lợi để quân và dân ta tiến lên giành toàn thắng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau ngày đất nước thống nhất, là một trong những cán bộ lãnh đạo cao nhất của Quân đội, đồng chí vẫn thường xuyên đến thăm các đơn vị từ các tỉnh địa đầu phía Bắc, cho đến các tỉnh tận cùng phía Nam và từng có mặt ở hầu hết các đảo quan trọng của nước ta trên Biển Đông, cũng như các vùng biên ải xa xôi của Tổ quốc để thấu hiểu và kịp thời động viên, chỉ đạo giải quyết nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ.

Xuất thân từ cán bộ chính trị và dành thời gian rất dài cho hoạt động chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị, đồng chí Đoàn Khuê là một trong những cán bộ chính trị xuất sắc của Quân đội nhân dân Việt Nam, có phong cách làm việc dân chủ, sâu sát thực tiễn, luôn có mặt ở những chiến trường trọng điểm, kịp thời động viên, phát huy sức mạnh chính trị - tinh thần của bộ đội, khắc phục khó khăn, nêu cao quyết tâm, vươn lên hoàn thành các nhiệm vụ được giao./.

[Nguồn: Bộ Quốc phòng]