Giáo sư Hồ Đắc Di - Người thầy thuốc tài hoa và tư tưởng giáo dục vượt thời đại

    Nhân vật liên quan

    • Giáo sư, Bác sĩHồ Đắc Di

Hà Nội (TTXVN 24/6/2024) Là bác sĩ phẫu thuật đầu tiên của Việt Nam, cũng là Hiệu trưởng của trường Đại học Y sau cách mạng, Giáo sư Hồ Đắc Di được mệnh danh là người thầy thuốc tiên phong của các công trình y học hiện đại, người mở đường và định hướng cho những nghiên cứu thực hành y học, cũng như xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại và nhân văn.

Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di

   * Người thầy thuốc tài hoa

Sinh ngày 11/5/1900 trong một dòng họ quyền thế, danh gia vọng tộc ở Huế, Giáo sư Hồ Đắc Di đã có một tuổi thơ êm đềm tại quê làng An Truyền (còn gọi là làng Chuồn), trước thuộc tổng Vĩ Dạ, nay thuộc huyện Phú Vang. Cha mẹ ông tuy đều xuất thân nho học nhưng lại hướng các con  theo văn hóa Tây phương. Lên trung học, gia đình cho ông theo học tại trường Lycée Albert Sarraut (Hà Nội), sau đó gửi ông sang Pháp học chuyên ngành y từ năm 1918 đến 1932.

Đầu tiên, ông đến bệnh viện Cochin, được học Giáo sư Ferdinand Widal - người là niềm tự hào của y học lâm sàng nước Pháp. Ông trở thành người Việt Nam đầu tiên đỗ bằng Thạc sĩ Y khoa Pháp, tiếp đó đỗ bác sĩ nội trú, làm phẫu thuật ở bệnh viện Tenon và làm trợ lý cho Giáo sư Gernez 4 năm, là cơ hội để ông học hỏi, nghiên cứu về phương pháp điều trị bằng phẫu thuật. Ông đã chứng tỏ khả năng của mình khi sáng tạo phương pháp mổ dạ dày (nối thông dạ dày-tá tràng) để điều trị chứng hẹp môn vị do bệnh loét dạ dày- tá tràng gây ra, thay thế cho phương pháp cắt bỏ dạ dày vẫn dùng trước đó. Đây là cách điều trị bảo tồn được mang tên ông, được nhiều sách y học nhắc đến và thừa nhận giá trị trong hàng chục năm sau.

Năm 1919, ở Pháp, với danh nghĩa “Hội những người Việt Nam yêu nước”, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đưa ra 8 yêu sách gửi đến Hội nghị Hòa bình Versailles, gây tiếng vang lớn ở Paris đã tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm của nhiều học sinh, sinh viên trí thức Việt Nam ở Pháp lúc bấy giờ, trong đó có chàng sinh viên y khoa Hồ Đắc Di.

Một sáng chủ nhật năm 1919, Hồ Đắc Di cùng bạn đến trụ sở Hội Sinh viên An Nam ở số nhà 15 phố Sommerard, khu Latin, Paris. Trong văn phòng có ba người đang trò chuyện, đó là Phan Chu Trinh, luật sư Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc. Hồ Đắc Di xúc động đến bàng hoàng. Thì ra, con người đã cất cao tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng cho dân tộc Việt Nam, người ấy đang ngồi trước mặt mình!

Đó là cuộc gặp gỡ định mệnh làm thay đổi cuộc đời chàng trí thức tài hoa và đầy nhiệt huyết Hồ Đắc Di. Từ sau lần gặp gỡ đó, ông đã có mặt trong số sinh viên Việt Nam bí mật đi bán các số báo “ Người cùng khổ” và “Việt Nam hồn” trong hội thợ thuyền ở khu Latin.

Sau 13 năm học và làm việc ở Pháp, ông về nước, những mong đem tri thức khoa học cứu chữa đồng bào, nhưng khi về bệnh viện Huế, sau là Quy Nhơn, thực tế khiến ông vô cùng thất vọng. Thực dân Pháp coi thường người Việt  nên chỉ cho ông làm bác sĩ tập sự. Một thời gian sau, ông được bác sĩ Leroy des Barres, Hiệu trưởng trường Đại học Y - Dược Hà Nội mời về giảng dạy tại trường Đại học Y - Dược thuộc Đại học Đông Dương. Lúc này, ở bệnh viện Phủ Doãn và cả Đông Dương chỉ có hai bác sĩ người Pháp là Leroy des Barres và Cartoux có thể thực hiện phẫu thuật. Là giảng viên đại học y, bác sĩ Hồ Đắc Di nhiều lần đấu tranh, cuối cùng đã được chính quyền thực dân cho phép đứng mổ. Thực tài của ông dần được thừa nhận. Tính đến năm 1945, ông đã công bố 37 công trình nghiên cứu trên các tạp chí y học Pháp ở Paris và Viễn Đông. Cuối cùng, hội đồng giáo sư Trường đại học Y Hà Nội, gồm toàn các giáo sư người Pháp, và Toàn quyền Đông Dương đã công nhận chức danh Giáo sư đại học cho Hồ Đắc Di. Ông cũng là người Việt Nam duy nhất được Pháp thừa nhận danh hiệu này trong gần 80 năm đô hộ nước ta.

Tuy nhiên làm việc dưới quyền bọn thực dân, bác sĩ Hồ Đắc Di luôn cảm thấy uất ức và tủi nhục: “Là thày thuốc mà tôi như là một người bệnh: người bệnh về tâm hồn”. Chính vì thế, năm 1945, khi được biết phong trào Việt Minh là do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, bác sĩ Hồ Đắc Di đã thầm tự nhủ: Chính nghĩa đây rồi! Độc lập, Tự do đây rồi! Và khi được thấy con người mảnh khảnh năm xưa cất cao giọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, niềm tin của ông càng thêm vững chắc. Ông viết trong hồi ký: “… Tất cả những ai trải qua những ngày nhọc nhằn, day dứt về lương tâm dưới chế độ cũ ắt sẽ lao vào cơn lốc của cách mạng, mỗi khi ánh lửa của nó rọi sáng tâm hồn. Đối với những người trí thức cũ thì sự đổi đời bắt đầu từ sự chọn lựa nơi mà lương tâm mình được yên ổn nhất”.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy giao cho Giáo sư Hồ Đắc Di nhiều trọng trách: Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội, Tổng Thanh tra Y tế, Tổng Giám đốc Vụ Đại học và Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy (khu vực ngày nay là Bệnh viện trung ương quân đội và Bệnh viện Hữu nghị). Giáo sư nhiệt thành nhận nhiệm vụ mới.

   * Người đặt nền móng cho giáo dục ngành Y

GS Hồ Đắc Di, GS Tôn Thất Tùng và Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch - những tên tuổi lớn của y học Việt Nam sau ngày Hà Nội giải phóng. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát

Ngày 6/10/1947, Trường Đại học Y kháng chiến khai giảng tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, trường có hai giáo sư và 11 sinh viên xung phong. Giáo sư Hiệu trưởng Hồ Đắc Di đọc một bài diễn văn đầy xúc động và rất sâu sắc, đến nay vẫn còn giữ được nguyên văn.

Một ngày sau lễ khai giảng, Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn, đốt nhà Giáo sư, vác loa gọi đích danh: "Bác sĩ Di, Bác sĩ Tùng về làm việc với chính phủ Pháp, sẽ được trọng đãi". Nhưng giáo sư kiên quyết: "Chết thì chết, không để bọn Pháp bắt lại".

Cùng nhân dân trải qua những tháng ngày gian khổ kháng chiến, Giáo sư Hồ Đắc Di, các đồng nghiệp và học trò nếm mật nằm gai, xây dựng trường Đại học Y ngày càng lớn mạnh. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Giáo sư đã có những công trình có giá trị khoa học và tư tưởng như: Diễn vǎn của Tổng Giám đốc Đại học vụ ngày khai giảng trường đại học (1947), Bàn về vǎn hoá và tinh thần khoa học (30/11/1948); Diễn vǎn trong lễ khai mạc Hội nghị y tế toàn quốc (1949); Bài giảng sinh học và bệnh học đại cương (tháng 5/1950)…

Tầm nhìn xa trông rộng của Giáo sư đã vạch ra một con đường đầy hứa hẹn đổi với giáo dục đại học cũng như với ngành y ngay từ những ngày đầu. Năm 1947, Giáo sư đã chỉ rõ: Trường đại học là một cộng đồng trong đó thầy và trò cùng có chung một niềm khát khao học hỏi qua tự do trao đổi ý kiến để đạt đến chân lý, để thấu hiểu một cách đúng đắn giá trị của sức mạnh trí tuệ. Đó chính là bí quyết của tinh thần đại học (...). Trong lao động tập thể, trong không khí thân mật, ấm áp, tin cậy và tôn trọng lẫn nhau giữa thầy và trò, óc phê phán khoa học, đóa hoa đẹp nhất của trí tuệ con người, sẽ có đất để phát huy, nở rộ.

 Đó là mối quan hệ thầy trò hoàn toàn mới, theo tinh thần dân chủ, khoa học, và nhân bản.

Giáo sư cũng sớm cho rằng trường đại học phải “vừa là trung tâm giảng dạy, vừa là trung tâm nghiên cứu”. Ông viết: “Giảng dạy và nghiên cứu là hai anh em sinh đôi, và nhiều khi giảng đường trang nghiêm chỉ là sảnh chờ trước khi bước vào phòng thí nghiệm” (Sứ mạng và vai trò của trường đại học - 1949).

Về sau, ông nói rõ thêm, trường đại học không chỉ là nơi giảng dạy khoa học đã hình thành, mà còn là nơi đang hình thành khoa học.

Nhiều người bạn của ông từng nhận xét, ông không chỉ là một thầy thuốc, mà là một nhà giáo dục học thâm thúy, một nhà triết học với tính nhân văn rõ nét, người có thể nói to những điều mà người khác không nhận thấy, hay nhận thấy nhưng chỉ dám nói thầm.

Giáo sư Hồ Đắc Di luôn luôn đề cao y đức. Ông nhấn mạnh nghề thầy thuốc là “nghề không dung thứ bất cứ thứ gì trái đạo đức bởi vì nó liên quan đến cái tinh tế nhất là sự sống của con người”. Ông thường nhắc các đồng nghiệp trẻ phải trau dồi văn hóa, coi văn hóa là gốc rế, kỹ thuật là ngọn cành; dù thành thạo kỹ thuật đến đâu mà đầu óc nghèo nàn về văn hóa, thì cũng chưa thể gọi là người trí thức, theo đúng nghĩa của từ này.

Trong vai trò một thầy giáo, Giáo sư Hồ Đắc Di cho rằng “người thầy giáo nào càng đào tạo được nhiều học trò giỏi hơn mình thì càng hạnh phúc”. Ông đòi hỏi các giáo sư đại học: “phải phát hiện trong đám sinh viên những người có năng khiếu tìm tòi, rèn luyện cho họ óc quan sát, tính tò mò, tinh thần phê phán, khơi gợi ở họ lòng khát khao hiểu biết, bồi dưỡng cho họ trí tưởng tượng (...), biết vươn lên trên các sự kiện riêng lẻ, làm quen với các quy luật, biết suy luận một cách biện chứng, trung thực tuyệt đối trước các sự kiện” (Sứ mạng và vai trò trường đại học - 1949).

Một trong những học trò xuất sắc của Giáo sư Hồ Đắc Di chính là Giáo sư Tôn Thất Tùng. Khi đã trở thành viện sĩ của nhiều viện hàn lâm trên thế giới, Giáo sư Tôn Thất Tùng vẫn nhớ: Cụ Hồ Đắc Di thường dạy tôi: Khoa học là sự nổi dậy của tư duy. Đã làm khoa học là phải luôn luôn đặt lại vấn đề. Nếu không, thì chẳng còn gì để tìm kiếm nữa! Và cũng chẳng có gì để phát minh!

Nhớ về người thầy của mình, Giáo sư Phạm Khuê viết: Sự nghiệp của cụ Di là sự nghiệp khoa học. Cuộc sống của cụ Di là cuộc sống của một triết nhân.

Giáo sư Hồ Đắc Di qua đời ngày 25/6/1984 tại Hà Nội, thọ 84 tuổi. Để tưởng nhớ và tôn vinh ông, Hà Nội đặt tên ông cho một con phố: phố Hồ Đắc Di, nối liền với phố Tôn Thất Tùng, phố Phạm Ngọc Thạch và phố Đặng Văn Ngữ - là tên tuổi những người thầy thuốc tài đức vẹn toàn của nền y học Việt Nam hiện đại. Ông cũng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, năm 2016./.

Thu Hạnh (tổng hợp)