Ngày 20/3/1954: Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư kêu gọi bộ đội làm trận địa tiến công và bao vây trên mặt trận Điện Biên Phủ

    Nhân vật liên quan

    • Ủy viên Bộ Chính trị khóa II, III, IV; Bí thư Trung ương Đảng khóa II; Phó Thủ tướng Thường trực; Đại tướng, Bộ trưởng Quốc phòngVõ Nguyên Giáp

Để chuẩn bị cho đợt tiến công lần thứ hai, một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ xác định là xây dựng trận địa tiến công và bao vây. So với trước ngày mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ, việc xây dựng trận địa lần này to lớn và khó khăn gấp bội.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, hệ thống giao thông hầm, hào chằng chịt dài tới hơn 400 km của quân ta theo nhiều cấp độ khác nhau như chiếc thòng lọng từng ngày thít chặt quân địch, góp phần quan trọng vào chiến thắng cuối cùng. Trong ảnh: Lực lượng xung kích theo đường hào tiến sát các vị trí của địch trên đồi Him Lam và tiêu diệt cứ điểm quan trọng này ngay trong ngày mở màn chiến dịch 13/3/1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN

  Thời gian dành cho việc xây dựng trận địa bao vây và tiến công trong Đợt hai của Chiến dịch Điện Biên Phủ là 10 ngày. Những tuyến chiến hào vạch ra trên bản đồ ước tính dài khoảng 100km. Và chưa chắc dừng lại ở con số này. Việc xây dựng trận địa còn phải tiếp tục trong suốt quá trình chiến đấu.

Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, trận địa bao vây và tiến công cần có hai loại đường hào. Thứ nhất là đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội lớn. Thứ hai là đường hào tiếp cận địch của bộ binh. Đường hào trục chạy một đường vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm. Đường hào tiếp cận địch của bộ binh chạy từ những vị trí trú quân của các đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng, cắt ngang đường hào trục, tiến vào những vị trí địch mà ta định tiêu diệt. Các loại đường hào đều có chiều sâu 1,7 mét, không quá rộng để bảo đảm an toàn trước bom đạn địch, và giữ bí mật cho bộ đội khi di chuyển. Đáy hào tiếp cận địch của bộ binh rộng 0,5 mét, đáy hào trục rộng 1,2 mét. Dọc đường hào tiếp cận địch của bộ binh có hố phòng pháo, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng để đối phó với những cuộc tiến công. Việc xây dựng trận địa phải tiến hành vào ban đêm, làm tới đâu ngụy trang tới đó và triển khai cùng một lúc trên toàn thể mặt trận để phân tán sự chống phá của địch.

Đại đoàn 308 phụ trách phía Tây, các Đại đoàn 312 và 316 phụ trách phía Đông. Trận địa phía Tây và phía Đông gặp nhau một đầu ở đồi Độc Lập, một đầu ở bản Cò Mị, kết hợp thành một đường vòng rộng ôm lấy cánh đồng Mường Thanh. Trung đoàn 57 của 304, được tăng cường một tiểu đoàn của 316, có nhiệm vụ xây dựng một trận địa hình cánh cung, chạy từ Đông sang Tây, cắt rời phân khu Hồng Cúm khỏi khu trung tâm Mường Thanh.

* Theo mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, nhiệm vụ xây dựng trận địa tiến công và bao vây được quy định cụ thể như sau:

- Đại đoàn 308: xây dựng đường giao thông hào trục từ Nam vị trí đồi Độc Lập qua Bản Kéo, Pe Nọi, Nậm Bó, Bản Mé, bản Cò Mị tới sông Nậm Rốm và đường hào trục từ Pe Nọi vào vị trí tập kết của bộ đội phía Tây Mường Thanh. Làm trận địa tiến công để chuẩn bị công kích vị trí 106.

- Đại đoàn 312: xây dựng đường hào trục từ Nam vị trí đổi Độc Lập nối liền với đường hào trục của Đại đoàn 308, qua Him Lam, Long Bua, nối liền với đường hào trục của Đại đoàn 316. Làm trận địa tiến công, chuẩn bị công kích các điểm cao D, E và cứ điểm 105.

- Đại đoàn 316: xây dựng đường giao thông hào trục từ Long Bua nối liền với giao thông hào trục của Đại đoàn 312, đi qua Bản Bánh, Bản Ten tới sông Nậm Rốm ngang bản Cò Mị, nối liền với giao thông hào trục của Đại đoàn 308. Làm trận địa tiến công các điểm cao A1 và C1.

  Trước đợt 1 của Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã tiến hành xây dựng trận địa. Nhưng quy mô lần này rộng lớn hơn rất nhiều. Các đơn vị đều tiến hành một đợt học tập quán triệt nhiệm vụ tới toàn bộ cán bộ, chiến sĩ. Việc xây dựng trận địa lần này là một cuộc chiến đấu thực sự.

Buổi sáng là giờ ngủ của bộ đội. Khoảng cách sau bữa cơm trưa với bữa cơm chiều là thời gian quân ta chuẩn bị vật liệu xây dựng trận địa, lên rừng đốn gỗ, chặt lá ngụy trang. Sau bữa cơm chiều, bộ đội ta từ nơi trú quân tiến ra cánh đồng. Suốt đêm là thời gian bộ đội ta đào trận địa.

 

  Bộ đội phải lao động cật lực từ 14 tới 18 tiếng mỗi ngày. Những đêm giá rét, bộ đội ta đào trận địa mà mồ hôi vẫn tuôn chảy. Gặp những chỗ đất rắn hay nhiều sỏi đá, bàn tay các chiến sĩ phồng rộp, rớm máu. Nhưng khổ nhất vẫn là khi gặp ruộng lầy. Bộ đội ta phải ngụp trong bể bùn, dùng tay, dùng xẻng, mũ sắt, có lúc cả áo mưa để đựng bùn đổ đi. Sau đó, bộ đội ta lại phải đóng cọc, chèn phên hai bên thành hào phòng sụt lở. Những đêm mưa, ở nơi đất trũng, nước đổ vào đường hào, mọi người lội bì bõm giữa bùn nước. Nước mưa chảy tràn trên mặt nhưng không một ai ngừng tay.

Khi đường hào đã kéo dài hàng chục kilômét trên cánh đồng thì bộ đội ta không còn cách nào ngụy trang để che mắt quân địch, mỗi tấc đất chiến hào bắt đầu phải trả bằng máu. Pháo địch bắn suốt đêm vào những đường hào mà chúng đã phát hiện ban ngày. Máy bay liên tiếp thả đèn dù phát hiện những mục tiêu mới cho những trận oanh tạc. Địch đưa quân ra những trận địa ở gần, đánh bật bộ phận canh gác của ta, san lấp những đoạn hào, gài mìn ngăn bộ đội ta đào tiếp.

Giao thông hào của quân ta cắt đôi sân bay Mường Thanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến sĩ xung kích tiêu diệt địch. (Ảnh: TTXVN)

  Sau khi nghe báo cáo về tình hình xây dựng trận địa, ngày 20/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết Thư kêu gọi bộ đội làm trận địa tiến công và bao vây trên mặt trận Điện Biên Phủ: “... Tôi được báo cáo các đồng chí đã làm trận địa mấy ngày liền lại phải chiến đấu, rồi lại phải liên tục bắt tay vào làm trận địa, như thế có đồng chí mệt nhọc.

Nhưng, ta mệt nhọc thì cần phải nhớ rằng quân địch ở Điện Biên Phủ còn căng thẳng mệt nhọc hơn ta, thương binh không có hầm mà nằm, không đủ thuốc để chữa, công sự một phần bị sụp một phần bị rung chuyển, tiếp tế không đầy đủ, thỉnh thoảng lại ăn một quả đại bác của ta, lại thêm thương vong.

Như vậy, chúng ta nên nghỉ ngơi để cho kẻ địch có thì giờ mà nghỉ ngơi chấn chỉnh, có thì giờ mà tăng viện, mà thả dù tiếp tế, mà phát huy hiệu lực pháo binh và không quân của chúng, hay chúng ta là chiến sĩ của Quân đội nhân dân, là đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam, lúc này phải nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chịu mỏi mệt hơn một phần để gây thêm mười phần mệt mỏi và khó khăn cho địch. Giữa hai con đường đó, nên đi con đường nào? Tôi chắc các đồng chí đều đồng thanh trả lời nên phát huy truyền thống chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chiến đấu anh dũng của quân đội ta để liên tục làm trận địa, liên tục chiến đấu với địch....

…Vì nhiệm vụ trung tâm hiện nay là xây dựng trận địa, cho nên Tổng cục Chính trị đã quyết định tiêu chuẩn thứ nhất để giành lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Bác là việc xây dựng trận địa.

Tôi rất mong các đồng chí lập được nhiều công trong việc xây dựng trận địa và giành được lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Bác.

Nhiệm vụ xây dựng trận địa là một nhiệm vụ chiến đấu, vinh quang không kém các cuộc chiến đấu xung phong giết giặc…” 

 
 
 
 
 

Nguồn:

- TTXVN

- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.

- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2010.

- Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2014.