Trận đánh Buôn Ma Thuột (10-11/3/1975)
Buôn Ma Thuột, tỉnh lị tỉnh Đắk Lắk, là thị xã lớn nhất ở các tỉnh Tây Nguyên, được xây dựng trên một dải đất tương đối bằng phang, rộng 24 km2; trong khu vực có các núi đồi như Chư Bua, Chư Duê, Chư Lom, độ cao trung bình 500 m, nhiều vạt rừng nhỏ nằm rải rác trong các thung lũng và ven đồi. quân đội Sài Gòn xây dựng thị xã Buôn Ma Thuật thành một căn cứ quân sự có tầm chiến lược vừa là một trung tâm kinh tế, chính trị vừa là một đầu mối giao thông của toàn miền. Để giữ Buôn Ma Thuột, quân đội Sài Gòn tổ chức thành 3 khu vực phòng ngự lớn: khu dân cư ở phía bắc, khu hành chính ở phía đông và khu quân sự nằm ở phía tây và nam thị xã theo thế chân kiềng. Trong từng khu đều có lực lượng phòng ngự tại chỗ và lực lượng cơ động riêng; lực lượng phòng thủ và cơ động chính nằm trong khu quân sự. Ngoài ra, trong khu vực còn có 2 sân bay: 1 ở gần quận Hòa Bình phía đông nam thị xã 6 km, sát khu quân sự và 1 ở phía bắc thị xã. Trong mỗi sân bay thường xuyên có từ 5 đến 7 máy bay trực thăng và vận tải. Buôn Ma Thuật vừa là hậu cứ của Sư đoàn 23 (đơn vị chủ lực cơ động mạnh của quân đội Sài Gòn), vừa là hậu cứ của các liên đoàn, chiến đoàn và các binh chủng của Quân khu 2.
Lực lượng quân đội Sài Gòn trong thị xã Buôn Ma Thuột gồm Trung đoàn Bộ binh 53 (thiếu), sở chỉ huy Sư đoàn 23 và các đơn vị trực thuộc, 3 tiểu đoàn và một số đại đội bảo an, sở chỉ huy Liên đoàn Biệt động quân 296, cơ quan hành chính và Ban chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk, hậu cứ Thiết đoàn 8 và các trung đoàn 44, 45, một tiểu đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn pháo binh cùng lực lượng cảnh sát, dân vệ. Việc chỉ huy của các lực lượng phòng thủ thị xã do Chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk đảm nhiệm, chủ yếu dựa vào các lực lượng của Sư đoàn 23 (cơ quan hành chính và sở chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk nằm ở phía tây Sư đoàn bộ 23, phía bắc là sân bay thị xã). Khu căn cứ Sư đoàn 23 rộng từ 400 đến 1.000 m, dài gần 2.000 m, chạy dọc theo đường 14; quân đội Sài Gòn chia khu này ra từng khu nhỏ và giao cho từng đơn vị bộ binh và binh chủng trực thuộc đảm nhiệm. Giữa các khu nhỏ được ngăn cách bàng một lớp rào đơn, trong mỗi khu đều có đường ra vào riêng và có công sự làm sẵn, có ụ chiến đấu, chiến hào, hào giao thông có nắp, xen kẽ với vật chướng ngại. Sân bay Hoà Bình và hậu cứ Trung đoàn 53, Trung đoàn 44 hợp thành một khu quân sự liên hoàn hay còn gọi là khu B50. Lực luợng quân đội Sài Gòn trong khu B50 có 4.180 quân, riêng Trung đoàn 53 có 3.500 quân, đây là lực lượng phòng ngự mạnh nhất. Trước trận đánh, lực lượng địch trong thị xã có khoảng 8.400 quân, vũ khí có 17 pháo (13 khấu 105 mm, 4 khâu 155 mm), 16 xe tăng, 50 xe M113 và 6 máy bay trực thăng ở mỗi sân bay. Hướng phòng ngự chính của Buôn Ma Thuật là hướng tây bắc, khu phòng thủ then chốt là căn cứ Sư đoàn 23.
Kế hoạch và công tác chuẩn bị: ngày 16.2 trong cuộc họp với Bộ tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên do Đại tướng Văn Tiến Dũng đại diện Bộ Tống tư lệnh chủ trì đã xác định nhiệm vụ của các đon vị tiến công Buôn Ma Thuật: trong thời gian Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đánh Đức Lập, Thuần Mần, Cấm Ga. Sư đoàn 316 gồm 3 trung đoàn (148, 174, 149) được tăng cường mạnh về binh khí kĩ thuật phổi hợp Trung đoàn Đặc công 198, Trung đoàn 95B (Sư đoàn 325), Trung đoàn 24 (Sư đoàn 10) tiến hành tiến công tiêu diệt địch ở Buôn Ma Thuột. Ngày 18.2 Trung tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên giao nhiệm vụ cho các đơn vị: hướng tây bắc do Trung đoàn 148 đảm nhiệm, được tăng cường 4 pháo lựu 122 mm, 8 xe tăng, 3 pháo 85 mm và Trung đoàn pháo phòng không 232, được pháo binh chiến dịch chi viện, đánh chiếm khu thiết giáp, Tiểu khu Đắk Lắk và Sư đoàn bộ 23. Hướng tây nam do Trung đoàn 174 được tăng cường 8 xe tăng T54, 2 pháo 85 mm, 2 cối 120 mm, được pháo binh chiến dịch và pháo sư đoàn chi viện đánh chiếm thị xã, Chư Duê, phối hợp Trung đoàn Đặc công 198 đánh chiếm kho Mai Hắc Đế, sau đó theo đường 14 đánh vào sở chỉ huy Sư đoàn 23. Hướng nam do Trung đoàn 149 được tăng cường 2 pháo 85 mm, 1 cối 120 mm, 1 tiểu đoàn pháo phòng không, được pháo binh chiến dịch và pháo sư đoàn chi viện, tiến công vào thị xã, sở chỉ huy Sư đoàn 23 và Tiểu khu Đắk Lắk; 1 tiểu đoàn phối hợp với Trung đoàn Đặc công 198 đánh chiếm sân bay Hoà Bình. Hướng đông bắc do Trung đoàn 95B cùng 8 xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo phòng không, 2 pháo lựu 122 mm, đánh chiếm Ngã Sáu và Tiểu khu Đắk Lắk, phối hợp với các mũi của Trung đoàn Đặc công 198 đánh vào sân bay thị xã. Hướng đông do Trung đoàn 24 cùng xe tăng thiết giáp tiến theo đường 429 đánh chiếm khu truyền tin, khu quân y sau đó thọc sâu vào sở chỉ huy Sư đoàn 23. Ngày 5.3 các đơn vị nhận lệnh của Bộ tư lệnh Chiến dịch, bắt đầu triển khai lực lượng. Ngày 8.3, Sư đoàn 320 diệt căn cứ Thuần Mần, đồng thời Sư đoàn 10 tiến công căn cứ Đức Lập. Sau khi tiến hành các hoạt động nghi binh làm lạc hướng đề phòng của quân đội Sài Gòn, đêm 9.3 ta bí mật triển khai lực lượng tiến công Buôn Ma Thuột từ 5 hướng (đông bắc, tây bắc, tây nam, tây và nam).
1 giờ 30 phút ngày 10.3, trận đánh mở đầu bàng lực lượng đặc công của Trung đoàn 198 luồn sâu bất ngờ đánh chiếm một số vị trí ở kho Mai Hắc Đế, sân bay Hoà Bình, sân bay thị xã và hậu cứ Trung đoàn 53; tiếp đó các cụm hoả lực pháo binh chiến dịch và pháo binh sư đoàn đồng loạt bắn chế áp sát thương quân đội Sài Gòn trong thị xã (căn cứ Sư đoàn 23, Tiểu khu Đắk Lắk và các khu pháo binh, thiết giáp), tạo điều kiện cho bộ binh và xe tăng trên các hướng phát triển tiến công. Trên hướng tây bắc, Trung đoàn 148 xuất phát tiến công trên địa hình trống trài trời sáng, quân đội Sài Gòn phát hiện, dùng hoả lực từ các điếm cao bắn chế áp; hỏa lực của trung đoàn không đù mạnh để kiềm chế hỏa lực địch, phải đề nghị pháo cấp trên bắn chi viện trực tiếp để các đơn vị tổ chức mở cửa, đến 10 giờ 40 phút, trung đoàn mở đợt tiến công vào thị xã. Mặc dù quân đội Sài Gòn chống trả quyết liệt, Tiểu đoàn 6 đánh chiếm được khu thiết giáp, tiếp đến đánh chiếm hậu cứ Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 45 quân đội Sài Gòn); sau đó, trung đoàn phát triển đánh sâu vào bên trong thị xã theo đường Phan Bội Châu, đánh chiếm khu Bồ Đề, đến 18 giờ ngày 10.3, trung đoàn chuyển sang chốt giữ các điểm trọng yếu trong khu vực đã chiếm.Trên hướng tây nam, Trung đoàn 174 vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công chậm, đến 17 giờ ngày 10.3, Tiểu đoàn 3 mới nổ súng đánh Chư Duê (sau 1 giờ chiến đấu tiểu đoàn làm chủ 3 mỏm cứ điểm); đồng thời, trung đoàn diệt các mục tiêu tiền duyên sau đó theo trục đường 14 vòng qua kho Mai Hắc Đế đánh thẳng vào trung tâm thị xã, chiếm ấp Ba Lê, khu Phạm Ngũ Lão và đánh chiếm khu tham mưu quân đội Sài Gòn... Trên hướng nam, Trung đoàn 149 sau khi tiêu diệt điểm cao 491 và Chư Lom trong đêm 9.3; sáng 10.3 trung đoàn tiến vào thị xã theo đường Thống Nhất, tiến đánh địch trong khu nhà thờ Tin Lành và cổng chính căn cứ Sư đoàn 23. Địch chống trả quyết liệt (quân địch ở đây đông, có hoả lực mạnh, nên các trận đánh của trung đoàn với quân phản kích kéo dài tới 17 giờ); trung đoàn chiến đấu kiên cường, song cũng chỉ đánh chiếm thêm được khu cư xá sĩ quan, khu nhà thờ quân đội.
Trên hướng đông bắc, Trung đoàn 95B sau khi diệt 2 chốt ngoại vi 596, Chư Bua trong đêm 9.3, lúc 8 giờ ngày 10.3, chuyển sang tiến công đánh chiếm Ngã Sáu, tiếp đó, trung đoàn tiến theo phố Cao Thắng và Phan Chu Trinh đánh chiếm khu nhà thờ và phát triển đánh chiếm sở chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk (Đại tá chỉ huy tiểu khu rút chạy về sở chỉ huy Sư đoàn 23); đánh chiếm đồn quân cảnh, khu hành chính, phối hợp đặc công tiến đánh và làm chủ sân bay thị xã. Trên hướng đông, 7 giờ 30 phút ngày 10.3, Trung đoàn 24 làm nhiệm vụ thọc sâu chiến dịch đã đánh chiếm khu gia binh, đến 12 giờ 30 phút đánh chiếm khu truyền tin, 18 giờ đánh chiếm khu quân y và tổ chức đánh bại phản kích của quân đôi Sài Gòn, giữ vững khu vực đã chiếm... Ta đánh mạnh trên cả năm hướng, quân đội Sài Gòn co về phòng thủ tại căn cứ sở chỉ huy Sư đoàn 23, tăng cường máy bay ném bom, đánh phá, đồng thời đưa Liên đoàn Biệt động quân 21 đến ứng cứu và tổ chức phản kích hòng chiếm lại các vị trí quan trọng trong thị xã, nhưng bị ta kịp thời tập kích, đẩy lùi. 5 giờ 30 phút sáng 11.3, ta tập trung lực lượng bao vây, pháo kích và tiếp tục đánh địch co cụm tại căn cứ sở chỉ huy Sư đoàn 23. Trung đoàn 174 triển khai đội hình theo 3 mũi: 1 mũi do Tiểu đoàn 3 được tăng cường 4 xe tăng, phối hợp với Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 24) tiến công các mục tiêu trong căn cứ Sư đoàn 23; 1 mũi do Đại đội 11 (Tiểu đoàn 3), đánh chiếm ấp Ba Lê 2, sau đó thọc sang khu tham mưu của sở chỉ huy; 1 mũi do Tiểu đoàn 1, được tăng cường 3 xe tăng đột phá khu đài phát thanh sau đó chọc vào sở chỉ huy Sư đoàn 23... Trung đoàn 149 chia làm 2 mũi: 1 mũi do Tiểu đoàn 7 đánh vào khu tham mưu, 9 giờ 50 phút tiểu đoàn đánh tan quân địch phản kích rồi tiến vào trung tâm sở chỉ huy Sư đoàn 23; 1 mũi do Tiểu đoàn 8, từ tiểu khu thọc sang sở chỉ huy Sư đoàn 23, phối hợp với các mũi tiến công của Trung đoàn 148 và Trung đoàn 95B cùng đánh chiếm mục tiêu then chốt của địch; đến 10 giờ 30 phút ngày 11.3, ta hoàn toàn làm chủ trận địa, tiến hành truy quét tàn quân địch ra khỏi thị xã.
Kết quả, ta tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân đội Sài Gòn ở Buôn Ma Thuột, bắt Đại tá Sư đoàn phó Sư đoàn 23 và Đại tá chỉ huy Tiểu khu Đắk Lắk, thu nhiều vũ khí, phương tiện quân sự. Trận then chốt thứ nhất của chiến dịch thắng lợi giải phóng Buôn Ma Thuật, cùng với việc đánh chiếm các quận lị Thuần Mần và Đức Lập là đòn điểm huyệt bất ngờ làm đảo lộn thế phòng ngự của quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên, buộc quân đội Sài Gòn phải rút bỏ Kon Tum và Pleiku, dẫn đến hàng loạt sai lầm khác, tạo điều kiện cho ta phát triển tiến công giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và các tinh miền Nam Trung Bộ.
Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)