Chiến dịch Đồng Xoài (10/5 - 22/7/1965)

Bước vào 1965, trước nguy cơ thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt, Mĩ quyết định đưa quân vào tham chiến ở miền Nam, đồng thời tăng cường viện trợ quân sự và trang bị vũ khí cho quân đội Sài Gòn, với hi vọng tạo thế chiến lược mới, giành lại quyền chủ động trên chiến trường, về phía ta, sau thắng lợi Chiến dịch Bình Giã (2.12.1964- 3.1.1965), tốc độ xây dựng lực lượng chủ lực được đẩy nhanh. Tại Nam Bộ, trong 2 tháng đầu năm 1965, ta đã xây dựng thêm được 2 trung đoàn (3,4); các đơn vị được trang bị thêm một số loại vũ khí như súng tiểu liên AK, súng chống tăng B-40..., góp phần nâng cao đáng kể sức mạnh chiến đấu cho bộ đội cả về vật chất và tinh thần. Cùng với việc xây dựng lực lượng và tàng cường vũ khí, trang bị, những bài học kinh nghiệm tác chiến tập trung của bộ đội chủ lực rút ra từ chiến dịch Binh Giã cũng nhanh chóng được phổ biến và đưa vào huấn luyện cho bộ đội, kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển mới của chiến trường.
Căn cứ vào nhiệm vụ chiến lược do Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra là tiếp tục đẩy mạnh tiến công quân sự kết bợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị, nhanh chóng thực hiện những đòn đánh tiêu diệt lớn hơn, đấy nhanh sự suy sụp. tan rã của quân đội Sài Gòn, kiên quyết đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt” của Mĩ, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền quyết định mở đợt hoạt động Xuân - Hè 1965, trọng điểm là Chiến dịch Đồng Xoài nhằm đánh bại quân đội Sài Gòn trước khi Mĩ tăng quân vào chiến trường miền Nam. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Thiếu tướng Lê Trọng Tấn (giai đoạn cuối chiến dịch bổ sung Trần Độ làm Chính ủy), Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Hoàng Cầm, Phó Tư lệnh Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà), Phó Chính ủy Lê Văn Tưởng. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 trung đoàn bộ binh (271, 272,273, còn có tên gọi khác là 1,2, 3), 2 tiểu đoàn đặc công và một số đơn vị pháo binh, công binh của chủ lực Miền; 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn bộ binh của Quân khu 6 cùng lực lượng vũ trang địa phương các tinh Bình Long, Phước Long, Lâm Đồng, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa. Địa bàn chiến dịch trải rộng gần 1 nghìn km2, bao gồm các tỉnh Phước Long, Binh Long (hướng chính), Lâm Đồng, Binh Tuy, Long Khánh, Biên Hoà, Bà Rịa (hướng phối hợp). Lực lượng địch ở khu vực Đồng Xoài và 2 tỉnh Binh Long, Phước Long có 9 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn biệt động quân, 1 tiểu đoàn dù, 2 tiểu đoàn và 7 đại đội bảo an, 21 đại đội biệt kích, 1 chi đoàn thiết giáp; cố vấn Mĩ trực tiếp chỉ đạo thực hiện chương trình bình định nông thôn tại đây.
Bộ tư lệnh Chiến dịch xác định kết họp chặt chẽ tiến công quân sự với tiến công chính trị và binh vận, tích cực tiêu diệt địch, phát động nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, phát triển chiến tranh nhân dân, mở rộng và củng cố vùng giải phóng; thực hiện đánh điểm để diệt viện. Trận mở đầu chiến dịch, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định tiến công Phước Bình, đồng thời tiến hành đột nhập và trụ lại trong thị xã Phước Long để nhử viện binh và tổ chức trận địa phục kích tiêu diệt địch trên đường 2, đoạn từ Phước Bình lên Phước Long.

Ta đang gấp rút chuẩn bị cho trận đánh mở màn thì kế hoạch bị lộ, địch đã tăng cường phòng thủ và đưa lực lượng trong thị xã  Phước Long ra ngoài phục kích nhằm ngăn chặn ta tiến công. Sau khi nắm lại tình hình, bộ tư lệnh Chiến dịch vẫn quyết tâm thực hiện theo kế hoạch chiến dịch, triển khai lực lượng và tiến hành nổ súng đúng thời gian đã định. Trong quá trình hành quân chiếm lĩnh trận địa trên hướng chủ yếu, các đơn vị phải vượt qua nhiều địa hình khó khăn phức tạp, giữ được bí mật, an toàn. Các đon vị sau khi vượt sông Bé, đã nhanh chóng đưa đội hình vào triển khai chiếm lĩnh trận địa theo quy định, trong đỏ các trận địa hỏa lực cũng kịp thời được bố trí ở khu vực phía bắc sân bay Phước Long, chuẩn bị mục tiêu sẵn sàng chi viện cho bộ binh chiến đấu. Tuy nhiên, các đon vị hỏa lực do hành quân xa, sức mang vác có hạn nên số lượng đạn không đủ một cơ số chiến đấu. Chiến dịch diễn ra 3 đợt.
Đợt 1 (10-31.5), tập trung lực lượng đánh điểm diệt viện ở khu vực Phước Bình - Phước Long, phối hợp đánh địch vận chuyển trên đường 20. Trên hướng chủ yếu, đêm 10 rạng 11.5, Tiểu đoàn Bộ binh 1 (Trung đoàn 271) phối hợp với Tiểu đoàn 840 (Quân khu 6) và 2 trung đội đặc công nổ súng tiến công thị xã Phước Long; sau 3 giờ chiến đấu chiếm được khu truyền tin và phần lớn khu cảnh sát, phá hủy kho xăng, trận địa pháo và chi đội thiết giáp, đánh thiệt hại nặng khu trung tâm huấn luyện, đồn biệt động, đồn bào an, khu cư xá Mĩ và dinh tỉnh trưởng. Cùng thời gian, Tiểu đoàn Bộ binh 1 (Trung đoàn 272) có hỏa lực chi viện tiến đánh chi khu Phước Bình, sau 25 phút chiến đấu làm chủ chi khu.
Sau khi hoàn thành thắng lợi trận then chốt thứ nhất của chiến dịch đúng như dự kiến, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 271) và Tiểu đoàn 840 tổ chức chốt giữ các mục tiêu đã chiếm ở thị xã Phước Long để nhử viện, sáng 11.5, đánh lui 6 đợt phản kích, bắn rơi 13 máy bay, bắn cháy 1 xe thiết giáp, diệt 2 đại đội thuộc Tiểu đoàn Biệt động 36 của địch đến ứng cứu. Trưa và chiều 11.5, địch tiếp tục đưa quân đến phối hợp với lực lượng tại chỗ tiến hành phản kích. Các đơn vị tổ chức đánh trả quyết liệt, nhưng thiếu đạn dược, đến tối 11.5, bộ đội được lệnh rút khỏi thị xã và tổ chức đưa thương binh, tử sĩ qua sông về nơi an toàn. Từ 12.5, địch huy động lực lượng gồm 4 tiểu đoàn cơ động bằng đường bộ và đường không đến giải tỏa. Do nắm địch không chắc, công tác chuẩn bị thiếu chu đáo, khả năng to chức chỉ huy và hiệp đồng chiến đấu chưa tốt, nên ta đã bỏ lỡ thời cơ đánh trận then chốt thứ hai của chiến dịch trên đoạn đường Phước Bình đi Phước Long. Trước tình hình đó, bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định phân tán lực lượng xuống phía nam Phước Long và Phước Bình để đánh địch từ Đồng Xoài lên, trong đó bố trí Trung đoàn 271 đứng chân ở phía đông đường 2 (nay là tỉnh lộ 741) chờ đánh quân đổ bộ đường không; Trung đoàn 272 ở phía tây Đồng Xoài đón đánh địch từ hướng đường 13 vào; Trung đoàn 273 ở phía tây đường 2 đánh mục tiêu Bù Đốp.
Ngày 21.5, đoàn xe chở quân của địch theo đường 2 từ Phước Bình xuống Đồng Xoài, nhưng không đổ quân xuống khu vực phía đông đường như ta dự kiến nên Trung đoàn 271 không đánh được. Tiếp đó, ngày 22.5, địch tiếp tục đưa quân từ Đồng Xoài lên; các trung đoàn 271 và 273 của ta được lệnh khẩn trương cơ động chặn đánh, nhưng do nắm địch không kịp thời, phán đoán thiếu chính xác, nên chỉ đánh được vào cuối đội hình địch, không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trên hướng phối hợp, Trung đoàn 4 (Quân khu 6) tiến hành trận phục kích trên đường 20, diệt 2 đại đội bảo an, phá hủy 20 xe quân sự; ngoài ra, các đơn vị còn tổ chức phá sập 12 cầu lớn nhỏ trên các trục đường 20, 13 và 14, buộc địch phải điều 3 tiểu đoàn thường xuyên túc trực để giải tỏa giao thông. Kết thúc đợt 1, Quân ủy Miền và bộ tư lệnh Chiến dịch nhận định khu vực chủ yếu mà địch cố giữ là khu vực Chơn Thành, Đồng Xoài (còn gọi Đôn Luân), thị xã Phước Long, Binh Long, Bù Đốp, trong đó Đồng Xoài là một mắt xích quan trọng và là một trong những cứ điếm mạnh trong tuyến phòng thù Sông Bé bảo vệ hướng bắc Sài Gòn. Từ đó, bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định chuyển hướng tiến công xuống khu vực Đồng Xoài và xác định trận tiêu diệt chi khu Đồng Xoài là trận then chốt của đợt 2 chiến dịch.
Đợt 2 (9-20.6), tập trung toàn bộ lực lượng trên hướng chính thực hiện đánh điểm diệt viện ở Đồng Xoài hoặc thị xã Phước Long, đồng thời phối hợp tổ chức đánh địch vận chuyển trên đường 15. Chấp hành mệnh lệnh của bộ tư lệnh Chiến dịch, Trung đoàn 272 được tăng cường Tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 273) có pháo binh yểm trợ thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt chi khu Đồng Xoài. 22 giờ 45 phút ngày 9.6, trong lúc các đơn vị đang bí mật triển khai chiếm lĩnh trận địa, lực lượng làm nhiệm vụ mở cửa tường bị lộ do địch bất ngờ báo động, đã cho bộ đội nổ súng, khiến trận đánh diễn ra sớm hơn dự kiến. Không còn yếu tố bất ngờ, địch chống cự quyết liệt, nhưng với quyết tâm và sự phối hợp chiến đấu hiệu quả giữa các hướng, mũi tiến công, đột phá thọc sâu, đến 4 giờ sáng 10.6, ta đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm chi khu Đồng Xoài, diệt, bắt và gọi hàng phần lớn quân địch; sau đó các đơn vị được lệnh nhanh chóng rời khỏi trận địa để chuẩn bị đánh viện (xem Trận Đồng Xoài, 9-10.6.1965). Cùng thời gian, bộ đội công binh phối hợp đánh sập cầu Sông Bé, nhằm hạn chế khả năng cơ động đường bộ của địch và buộc địch phải tố chức ứng cứu bằng đố bộ đường không theo kế hoạch chuẩn bị của ta.
Sáng 10.6, địch dùng máy bay trực thăng đổ bộ Tiểu đoàn Bộ binh 1 thuộc Trung đoàn 7 (Sư đoàn 5) xuống khu vực đồn điền Thuận Lợi ứng cứu cho Đồng Xoài, bị Trung đoàn 271 bố trí sẵn trận địa bao vây tiêu diệt phần lớn. 15 giờ cùng ngày, địch tiếp tục đưa Tiểu đoàn Biệt động quân 52 đến phản kích, bị diệt 1 đại đội, số còn lại rút chạy vào rừng và co cụm chờ tăng viện. Sáng 11.6, địch tăng cường Tiểu đoàn Dù 7 và Tiếu đoàn Biệt động quân 46 cùng 1 đại đội pháo 105 mm tiếp ứng cho Đồng Xoài. Ngày 12.6, Tiểu đoàn dù 7 tiến vào khu vực đồn điền Thuận Lợi để thu thập tàn binh và nhặt xác đồng bọn, bị Trung đoàn 271 vận động phục kích tiêu diệt phần lớn địch. Tiểu đoàn dù đầu tiên thuộc lực lượng cơ động chiến lược và là thần tượng về sức mạnh của quân đội Sài Gòn bị quân Giải Phóng tiêu diệt khiến cho số quân địch đóng ở Củ Chi, Cây Trắc... dọc quốc lộ 1 hoang mang bỏ đồn rút chạy. Với kết quả đánh thắng 3 trận có ý nghĩa quan trọng, hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu đề ra, trong đó thực hiện thành công cả ba yêu cầu về tiêu diệt địch trong công sự vững chắc, nhử viện và diệt viện, ngày 20.6, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định kết thúc đợt 2 để chuẩn bị chuyển sang đợt 3, với hướng tiến công phát triển đánh địch ở Bù Đốp và trên đường 13.

Đợt 3 (24.6-22.7), phân tán lực lượng đánh địch trên đường 13, đồng thời sử dụng lực lượng lớn đánh điểm diệt viện ở khu vực Bù Đăng hoặc Bù Đốp, phối hợp đánh địch ờ Long Khánh. Thực hiện ý định tác chiến của Bộ tư lệnh Chiến dịch, các trung đoàn 271 và 273 được lệnh cơ động lên phía bắc chuẩn bị đánh địch ở Bù Đốp; Trung đoàn 272 chuyển xuống phía nam đánh địch trên đường 13 (nam Chơn Thành) và giúp đỡ địa phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược, mở mảng mở vùng, mở rộng vùng giải phóng. Trên hướng đường 13, đêm 15.7, Trung đoàn 272 tổ chức tập kích 1 chiến đoàn hỗn hợp, gồm 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 chi đoàn thiết giáp thuộc Trung đoàn Bộ binh 7 (Sư đoàn 5) Quân đội Sài Gòn hành quân từ Bến Cát lên, tạm dừng ở Bàu Bàng, loại khỏi vòng chiến đấu 400 địch. Tiếp đó ngày 20.7, trên hướng Bù Đốp, Trung đoàn 273 tiến công trại huấn luyện biệt kích và chi khu Bù Đốp, diệt 2 đại đội, buộc địch phải rút bỏ cứ điếm Bù Gia Mập, tạo điều kiện hỗ trợ tích cực cho các địa phương đấy mạnh đấu tranh chính trị, binh vận, phát động quần chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, phát triển mạnh chiến tranh du kích ở hướng bắc Sài Gòn. Sau hơn 2 tháng tiến công giành thắng lợi vượt mức yêu cầu do Quân ủy Miền đề ra, đồng thời nhận thấy quân địch đã co vào cố thủ, khả năng chi viện ít, ngày 22.7, Bộ tư lệnh Chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch.

Kết quả chung toàn chiến dịch, ta đã tiêu diệt 4 tiểu đoàn chủ lực (trong đó có 1 tiểu đoàn dù thuộc lực lượng tông dự bị chiến lược), 24 đại đội bào an và biệt kích, 6 chi đội cơ giới, 4 phân đội kĩ thuật, loại khỏi vòng chiến đấu gần 4.500 quân địch, bắn rơi 34 máy bay, phá hủy 60 xe quân sự, 6 đầu máy và 12 toa xe lửa, thu và phá hủy hơn 2 nghìn súng, pháo các loại, giải phóng hơn 50 nghìn dân thuộc 2 tỉnh Bình Long và Phước Long, góp phần khai thông biên giới sang Campuchia, nối liền hành lang chiến lược từ miền Bắc qua đường Trường Sơn vào miền Đông Nam Bộ.
Cùng với các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, thắng lợi của Chiến dịch Đồng Xoài góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam; đánh dấu bước trường thành mới về trình độ tổ chức chuẩn bị và tác chiến tập trung, cũng như trình độ tổ chức và điều hành chiến dịch của đội ngũ cán bộ, chỉ huy, khả năng hiệp đồng trong tác chiến vận động của các lực lượng vũ trang Cách mạng miền Nam; đặc biệt đây là lần đầu tiên trong Kháng chiến chống Mỹ ta thực hiện thành công cách đánh công kiên. Chiến dịch Đồng Xoài là sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch tiến công, trong đó nét nổi bật là nghệ thuật mở màn và nhử viện, khéo léo kết hợp giữa đánh điểm và diệt viện, giữa đánh địch trong công sự với diệt địch ngoài công sự. Ở đây, vai trò đánh điểm đã thể hiện được cả hai chức năng vừa nhử viện, vừa diệt sinh lực địch trong công sự vững chắc. Lực lượng chủ lực Miền trải qua thực tiễn chiến đấu đã trưởng thành nhanh chóng và có bước phát triển vững chắc trong vận dụng và phát triển nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Tuy nhiên, chiến dịch còn bộc lộ những hạn chế như bỏ lỡ nhiều cơ hội diệt địch do ta đã đánh giá quá cao hoạt động của không quân Mĩ. Mặt khác, do chiến dịch diễn ra trên địa bàn quá rộng so với quy mô lực lượng, nên việc tổ chức hệ thống thông tin chỉ huy gặp khó khăn, thiếu vững chắc, việc tổ chức nắm địch chưa chặt chẽ và liên tục, còn lúng túng bị động khi địch đổ quân, dẫn đến lỡ thời cơ, làm hạn chế kết quả chiến dịch.

Nguồn: Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử Quân sự (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân - năm 2015)