''Truyện Kiều còn, tiếng ta còn...'' - Kỳ 3: Nguyễn Du sáng tạo thành ngữ và Việt hóa thành ngữ Hán Việt
Nhân vật liên quan
Hà Nội (TTXVN 18/9/2020) Trong kỳ 2, chúng ta đã khám phá nghệ thuật sử dụng thành ngữ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thông qua việc “lấy trọn vẹn cả thành ngữ, giữ nguyên dạng thành ngữ Hán Việt tạo màu sắc cổ kính, uy nghiêm cho các câu thơ” và việc “giữ nguyên thành ngữ tạo thành khối vững chắc mà câu thơ vẫn uyển chuyển, hài hòa”.
Nhưng việc vận dụng thành ngữ của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở đó. Hãy xem các khảo sát dưới đây:
Nguyễn Du sáng tạo thành ngữ
Khi sử dụng thành ngữ, ngoài lấy nguyên dạng câu thành ngữ, Nguyễn Du còn có khả năng sáng tạo rất lớn là tách, bẻ tục ngữ, thành ngữ ra từng bộ phận và xen vào những yếu tố phụ dôi dư. Nhờ đó, tục ngữ, thành ngữ được sử dụng trong Truyện Kiều được nhấn mạnh ý nghĩa, linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm.
Nguyễn Du miêu tả cảnh Kiều bị bắt về nhà Hoạn Thư và được mụ quản gia khuyên bảo xa xôi qua đoạn sau:
Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong cái kiến kêu gì được oan?
Tác giả không lấy nguyên vẹn thành ngữ ban đầu “rừng có mạch, vách có tai” mà ngắt, chêm sáng tạo thành câu “Ở đây tai vách mạch rừng”. Cụm từ “tai vách mạch rừng” có 2 vế: “tai vách” (vách có tai) và “mạch rừng” (rừng có mạch). Từ “mạch” được hiểu như mạch máu. Các bộ phận trong “mạch” đều có sự liên thông với nhau.
Thành ngữ sáng tạo thể hiện qua lời ngầm báo xa xôi của mụ quản gia cho thấy ở bất cứ đâu điều bí mật cũng phải được giữ kín. Bởi điều bí mật nếu để người khác nghe được thì hậu quả sẽ khôn lường. Bài học rút ra từ đoạn thơ trên là cách ứng xử của mỗi người cần kiệm lời, không nên ba hoa; nói năng phải cẩn thận kẻo những điều cần giấu kín sẽ bị lộ và lan truyền, gây hậu quả không mong muốn.
Việt hóa những thành ngữ Hán Việt
Căn cứ vào đặc điểm về âm thanh, ngữ điệu của tiếng Việt, Nguyễn Du đã Việt hóa từ thành ngữ Hán ra thành ngữ Việt.
(*) Các con số chỉ số thứ tự của câu thơ trong "Truyện Kiều"
Câu “Con tằm đến thác hãy còn vương tơ” được gợi ý từ thành ngữ Hán “Xuân tằm đáo tử ti phương tận” (con tằm mùa Xuân đến chết mới hết nhả tơ), Nguyễn Du đã chuyển nghịch nghĩa thuần Việt “Kiếp tằm vương tơ” cho câu Kiều số 1975-1976 “Dẫu rằng sông cạn, đá mòn/ Con tằm đến thác hãy còn vương tơ” dễ hiểu, trong sáng với tâm hồn người Việt.
Đây là đoạn miêu tả tâm trạng Thúc Sinh sau khi khi vợ phát hiện ra mối tình vụng trộm với Thúy Kiều. Câu thơ ngầm ngụ ý rằng dẫu cho vật đổi, sao dời thì Thúc Sinh vẫn khôn nguôi thương nhớ Kiều.
Từ câu thành ngữ “Miệng nam mô, bụng bồ dao găm”, Nguyễn Du đã kết hợp với câu tục ngữ dân gian “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm” để chuyển dịch nghĩa thuần Việt miêu tả cơn ghen của Hoạn Thư trong câu thơ số 1815-1816: “Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Tác giả chuyển nghĩa đen chữ Hán “nham hiểm” là núi cao, dốc sâu sang nghĩa bóng là con người độc ác một cách sâu kín không ai có thể lường trước được. Từ “giết người không dao” có nguồn gốc từ câu “Sát nhân vô đao kiếm” (giết người không cần dùng dao kiếm), Nguyễn Du đã khéo léo chuyển nghĩa để miêu tả cơn ghen thông minh mà nham hiểm của con quan Lại bộ “Vốn dòng họ Hoạn danh giả” tên là Hoạn Thư.
Từ thành ngữ Hán “Thủ khẩu như bình” (giữ mồm miệng như bưng miệng lọ/ bình), Nguyễn Du đã diễn đạt dễ hiểu hơn qua câu Kiều số 1577-1578: “Nghĩ mình bưng kín miệng bình/ Nào ai có khảo mà mình lại xưng”. Từ “bưng kín miệng bình” có nghĩa mọi việc cần được giữ kín, giấu kín trong miệng lọ/ bình.
Đoạn thơ trên Nguyễn Du miêu tả tài tình những suy nghĩ nội tâm dăng dện của Thúc Sinh đang “một tỉnh mười mể” đắm đuối trong tình yêu mới. Kiều chấp nhận thân phận lẽ mọn đến với Thúc Sinh “Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi”. Thúc Sinh hiểu niềm mong ước của Kiều “Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm”; càng không quên lời dặn dò, khuyên nhủ của nàng: “Xin chàng liệu kíp lại nhà/ Trước người đẹp ý, sau ta biết tình/ Đêm ngày giữ mực giấu quanh/ Rày lần mai lữa như hình chưa thông”.
Nhưng về đến nhà “trình diện” vợ, tâm trạng chàng Thúc rối bời. Chàng vừa muốn “xem ý tứ nhà” để “lân la giãi bày” nói rõ sự thật; vừa do dự “e ấp, dùng dằng”; vẫn muốn giấu nhẹm nên “lại thôi”... Dựa vào câu tục ngữ “rút dây động rừng” tác giả sáng tạo câu “Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi” miêu tả những dằng dện trong tâm tư Thúc Sinh sợ trình bày việc có vợ bé e sẽ ảnh hưởng đến những cái to tát hơn, dẫu biết chế độ phong kiến cho phép “trai năm thê bảy thiếp”...
Nguyễn Du được xem là “bậc thầy ngôn ngữ dân tộc”, là người đã nâng ngôn ngữ văn học của dân tộc, của thời đại lên một đỉnh cao chói lọi. Nhờ thế, tiếng Việt điêu luyện, tinh tế, đặc sắc đã trở thành một thứ “siêu ngôn ngữ”, là áng văn chương trác truyệt. Vì thế, ngay từ thế kỷ 19, cụ Đào Nguyên Phổ đánh giá “Truyện Kiều thật là một khúc Nam âm tuyệt xướng”./.
PGS - TS Lê Thị Bích Hồng
- Kỳ 1: Truyện Kiều sử dụng trên 70% từ thuần Việt, sáng tạo từ mới
- Kỳ 2: Khám phá những thành ngữ trong Truyện Kiều
- Kỳ 4: “Truyện Kiều” với “lời ăn tiếng nói” của nhân dân
- Kỳ 5: “Vận” Kiều trong đời sống và nghệ thuật
- Kỳ cuối: Cuộc đời Nguyễn Du và những khoảng mờ dành cho văn chương
- Từ khóa:
- Đại thi hào Nguyễn Du
- Truyện Kiều